PHẨM ĐỆ TỬ (PHẦN 1/2)-THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT-ĐƯƠNG ĐẠO

PHẨM ĐỆ TỬ (PHẦN 1/2)

THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT

ĐƯƠNG ĐẠO

-----oo0oo-----

Ngồi yên – hay thiền định – chẳng phải là nhất định phải ngồi. Ngồi yên thực sự là chẳng hiện thân ý trong ba cõi, đó là tâm thiền định. Tâm thiền định này là tâm Không, không trụ vào đâu cả và tâm thiền định ấy đạt đến pháp tánh. Tâm thiền định ấy chính là pháp tánh.
PHẨM ĐỆ TỬ (PHẦN 1/2)-THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT-ĐƯƠNG ĐẠO

 

XÁ LỢI PHẤT

Lúc bấy giờ, trưởng giả Duy Ma Cật nằm trên giường bệnh tự nghĩ thầm: “Thế Tôn đại từ lẽ đâu không đoái lòng thương xót?”

Phật biết ý của ông, liền bảo Xá Lợi Phất: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, con từng ở trong rừng ngồi yên dưới gốc cây. Lúc ấy Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Chẳng phải nhất định ngồi như vậy mới là ngồi yên. Phàm ngồi yên là chẳng hiện thân, ý trong ba cõi, đó là ngồi yên. Chẳng khởi diệt định mà hiện các oai nghi, đó là ngồi yên. Chẳng rời Đạo pháp mà hiện các việc phàm phu, đó là ngồi yên. Tâm chẳng trụ ở trong cũng không trụ ở ngoài, đó là ngồi yên. Bất động nơi các sự thấy mà tu hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đó là ngồi yên. Chẳng đoạn phiền não mà nhập Niết Bàn, đó là ngồi yên. Nếu có thể ngồi như vậy, Phật sẽ ấn khả.”

“Bạch Thế Tôn, lúc đó nghe những lời ấy, con lặng thinh, không đáp lại được. Thế nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

 

Trước tiên chúng ta phải nhận định rõ ràng rằng phẩm này không có ý giễu cợt xem thường các bậc Thanh Văn – một điều phạm giới của một vị thọ Bồ tát giới. Ở đây, toàn là những vị ít nhất (đã đắc ngã không – hơn nữa, đây là mười đại đệ tử Thanh Văn của Phật – bởi thế sự thị hiện vấn đáp và không nói được của các vị nên được xem là một vở kịch để hiển bày Phật pháp. Cũng như có nhiều kinh của Đại thừa, trong đó một bậc đa văn như ngài A Nan hỏi Phật đủ mọi phương diện, theo đủ loại căn cơ của chúng sanh, với đủ mọi tâm bệnh tà kiến của chúng sanh không phải vì ngài hoàn toàn không biết, mà bởi vì ngài hỏi thay cho tất cả chúng sanh, bởi thế mới có những kinh điển tồn tại cho đến ngày nay.

Ngồi yên – hay thiền định – chẳng phải là nhất định phải ngồi. Ngồi yên thực sự là chẳng hiện thân ý trong ba cõi, đó là tâm thiền định. Tâm thiền định này là tâm Không, không trụ vào đâu cả và tâm thiền định ấy đạt đến pháp tánh. Tâm thiền định ấy chính là pháp tánh. Theo ngài Duy Ma Cật, thiền định không phải là một hình tướng ngồi hay đứng, mà thiền định là tương ưng với pháp tánh, và pháp tánh này thì không sanh không diệt, không đến không đi, không nằm không ngồi. Pháp tánh này xưa nay thường định. Và thiền định là ngộ nhập pháp tánh ấy, không cứ gì ngồi hay nằm. Thấu đạt pháp tánh tức là ngồi yên, dù thân có đang làm gì.

Khi ngộ nhập được pháp tánh, thì ở trong pháp tánh ấy, “không nhập diệt tận định mà hiện các oai nghi, đó là ngồi yên; chẳng rời Đạo pháp (tức là pháp tánh) mà hiện các việc phàm phu, đó là ngồi yên; tâm chẳng trụ ở trong cũng không trụ ở ngoài, đó là ngồi yên; chẳng đoạn trừ phiền não mà nhập Niết Bàn (nghĩa là dầu có phiền não mà biết tánh của phiền não là pháp tánh tịch diệt), đó là ngồi yên”. Như thế, ngồi yên là chứng ngộ pháp tánh vốn thường định, thường tịnh và trụ trong pháp tánh ấy mà vẫn hiện các việc độ sanh ở đời, đó là người huyễn làm việc huyễn. Như vậy là hành thiền định. Vì pháp tánh là thường trụ, bất biến, không lệ thuộc vào các hình tướng tùy duyên, nên thiền định như vậy cũng thường trụ bất biến, không tùy thuộc vào các tư thế của thân. Đó là chân thiền định, và thiền định như vậy, “Phật sẽ ấn khả”, vì hành giả không còn lìa ngoài pháp tánh – tức là Phật tánh – nghĩa là hành giả sẽ hoàn toàn đạt được Phật tánh, sẽ thành Phật.

Vấn đề với hành giả là làm sao thấy biết được, quyết chắc được pháp tánh ấy là gì? Nếu chưa rõ ràng, chúng ta cần nương dựa vào một vị thầy. Vị ấy sẽ chỉ bày (khai thị) cho hành giả, sẽ gạn lọc cho hành giả có được cái thấy pháp tánh (“cái thấy trong Đại Toàn Thiện và Đại Ấn, “thấy tánh” trong Thiền tông) để sau đó đi vào “thiền định” và “hạnh” (theo Đại Toàn Thiện và Đại Ấn) hay vào sự “diệu tu” (của Thiền tông). Đó là quá trình khai, thị, ngộ, nhập Phật pháp.

 

MỤC KIỀN LIÊN

Phật bảo Đại Mục Kiền Liên: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

Mục Kiền Liên bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, con vào thành lớn Tỳ Da Ly, ở trong xóm làng, thuyết pháp cho các cư sĩ. Lúc ấy Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:

“Thưa ngài Đại Mục Liên! Thuyết pháp cho bạch y cư sĩ, chẳng nên thuyết như ngài vậy. Phàm thuyết pháp, phải như Pháp mà thuyết. Pháp không có chúng sanh, lìa chúng sanh cấu vậy. Pháp không có ngã, lìa ngã cấu vậy. Pháp không có thọ mạng, lìa sanh tử vậy. Pháp không có người, tiền tế hậu tế đoạn vậy. Pháp thường tịch nhiên, bặt dứt các tướng vậy. Pháp lìa khỏi tướng, không có chỗ để duyên theo vậy. Pháp không có danh tự, ngôn ngữ đoạn dứt vậy. Pháp không có thuyết, lìa suy nghĩ quán sát vậy. Pháp không có hình tướng, như hư không vậy. Pháp không có hý luận, rốt ráo Không vậy. Pháp không có ta và đối tượng của ta, lìa ta và đối tượng của ta vậy. Pháp không có phân biệt, lìa các thức vậy. Pháp không có so sánh, không có đối đãi nhau vậy. Pháp chẳng thuộc nhân, chẳng ở duyên vậy. Pháp đồng pháp tánh, vào khắp các pháp. Pháp tùy thuận Như, không có chỗ nào để tùy vậy. Pháp trụ thật tế, các biên (có không, thường đoạn…)chẳng động vậy. Pháp không có động lay, chẳng nương sáu trần vậy. Pháp không có đến đi, thường chẳng trụ vậy. Pháp thuận Không, tùy Vô tướng, ứng Vô tác. Pháp lìa tốt xấu. Pháp không có tăng giảm. Pháp không có sanh dỉệt. Pháp không có chỗ về. Pháp vượt ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Pháp không có cao thấp. Pháp thường trụ chẳng động. Pháp lìa tất cả mọi thiền quán, tu hành.

 

Pháp ở đây là pháp tánh, thật tánh, hay là Thực Tại nói theo từ hiện đại.

Trong thật tánh không có chúng sanh, không có ngã, bởi thế lìa mọi dơ uế (cấu) thấy có chúng sanh và ngã. Trong pháp không có sự tương tục của dòng tư tưởng tạo ra thọ mạng, cho nên niệm niệm chẳng nối tiếp nhau, chẳng liên hệ nhau, niệm khởi này tự bặt với chính nó, chẳng quan hệ gì với niệm tưởng khác, bởi thế sanh tử tự đứt đoạn, không thể thành tựu.

Pháp thường tịch nhiên, bặt dứt các tướng vậy: đây là thấy “các pháp là tướng Không, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm” trong Bát Nhã Tâm Kinh.

Pháp không có danh tự, ngôn ngữ dứt vậy: các tướng của sanh tử sở dĩ có là do các tưởng phân biệt, các tưởng sở dĩ có là nương vào danh tự mà thành. Pháp không có danh tự, nên các tưởng và các tướng là vọng lập, như huyễn. Các tưởng và các tướng là vọng lập, như huyễn nên sanh tử chỉ là giả danh, không thành tựu. Tâm đã dứt thì cái để tâm nương vào mà hoạt động là ngôn ngữ cũng dứt. Tâm dứt, ngôn ngữ dứt thì chỉ còn một vị Niết Bàn vô trụ.

Pháp không có phân biệt, lìa các thức vậy: trong pháp, trong thật tánh, tất cả bình đẳng một vị, như tất cả bóng trong gương cùng bình đẳng một vị là gương. Có phân biệt là do các thức vọng phân biệt. Khi nhìn thấy thật tánh, trong đó tất cả bình đẳng một vị, các thức phân biệt bèn tự hoại. Bấy giờ, “pháp không so sánh, không có đối đãi nhau”, có được như vậy mới có đại thái bình, đại an lạc.

Pháp đồng pháp tánh, vào khắp các pháp: tất cả các pháp đều đồng pháp tánh, và pháp tánh ấy vào khắp các pháp, thường trụ trong tất cả các pháp. Tất cả sóng đồng là nước, và nước ở trong tất cả các sóng. Tất cả những sợi lông của một con sư tử bằng vàng đều là vàng, và vàng vào khắp tất cả mọi sợi lông. Ngày nào hành giả sống được pháp tánh, thấy tất cả đều là mình và mình là tất cả, lúc ấy phiền não mới chấm dứt vì không còn phân chia. Ngày nào vẫn còn một cái ta tách biệt, một bọt nước tách biệt với đại dương, ngày đó còn đủ mọi vấn nạn, còn đủ mọi khổ đau.

Pháp là Không, Vô tướng, Vô tác: đây là ba pháp ấn của Phật giáo, về mặt bản thể, tất cả mọi sự vật là Không, về mặt hình tướng, tất cả mọi sự dù có hiện tướng mà vẫn là Vô tướng, tất cả mọi bóng trong gương dù có hiện tướng mà vẫn là gương, về mặt tác dụng, tất cả mọi sự vật dù có sanh diệt, đến đi mà vẫn là Vô tác, nghĩa là không sanh diệt, không đến đi, vẫn là tịch diệt. Thí dụ gió có chuyển động trong không khí, nhưng gió là không khí, sự chuyển động của một phần tử không khí trong không khí, đứng về mặt không khí mà nói thì cũng chỉ là không khí. Gió là không khí nên không tác động đến không khí. Gió là “vô tác” với không khí, không đến không đi, không sanh không diệt trong không khí.

Pháp lìa tất cả mọi thiền quán, tu hành: Pháp chính là bản tánh của tâm thức. Pháp chính là Tâm. Tâm vốn là Tâm, thường trụ, chẳng động, bất biến. Bởi thế mọi quán chiếu, tu hành trên chính Tâm ấy là vô ích. Như khởi lên những làn sóng quán chiếu, tu hành trên mặt đại dương là vô ích, không thêm không bớt gì cho đại dương. Biết được Tâm và biết mọi quán chiếu tu hành đều khởi từ Tâm và chính là Tâm, bấy giờ tha hồ quán chiếu tu hành, vì làm mọi sự mà không hư vọng, vì biết chỗ sanh trụ dị diệt của quán chiếu, tu hành.

Ở trên chúng ta chỉ nói về một số câu. Và trong một số câu đó cũng chỉ giải thích theo một chiều hướng nào đó, còn những chiều hướng khác không làm sao nói cho hết. Vấn đề là mỗi hành giả chúng ta tự mình chọn lấy điểm nào thích hợp với căn cơ, với vấn nạn đang có của mình, để Văn, Tư, Tu về nó lâu ngày dài tháng mới mong khám phá được phần nào câu kinh ấy. Văn là nghe, nghe câu kinh được nói. Tư là tư duy, suy nghĩ về nó. Và Tu là thiền định, thiền quán nó cho đến lúc ý nghĩa của nó bắt đầu hiện ra với mình. Một câu kinh ngắn tùy theo mức độ tu hành đến đâu thì hiểu đến đó. Bởi thế con đường Bồ tát có trên năm mươi cấp độ cạn sâu thì một câu kinh cũng có ít nhất bấy nhiêu mức độ cạn sâu cho đến khi hoàn toàn giác ngộ mới hiểu trọn vẹn một câu kinh.

Văn, Tư, Tu tốt nhất là làm dưới sự hướng dẫn và chăm sóc của một vị thầy.

 

“Thưa ngài Đại Mục Liên! Pháp tướng như vậy, há có thể thuyết sao? Phàm người thuyết pháp thì không có thuyết, không có chỉ bày. Người nghe pháp không có nghe, không có đắc. Ví như người huyễn thuật nói cho người huyễn hóa nghe. Thấy biết như vậy rồi mới thuyết pháp. Nên hiểu căn cơ chúng sanh lanh lợi hoặc chậm lụt. Thấy biết khéo sâu, không bị ngăn ngại. Lấy tâm đại bi, ca ngợi Đại thừa. Nghĩ nhớ báo đáp ân Phật, chẳng để Tam Bảo bị ngừng dứt. Như vậy rồi mới thuyết pháp.”

“Duy Ma Cật thuyết pháp ấy rồi, tám trăm cư sĩ phát tâm Bồ đề vô thượng chánh đẳng chánh giác. Con không có được biện tài như vậy. Thế nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

 

Thuyết pháp – cũng như bất kỳ việc nào của bồ tát – thì khởi lên trong tánh Không, diễn tiến trong tánh Không, chấm dứt trong tánh Không, biểu lộ trong tánh Không, với đối tượng trong tánh Không. Như trong mộng huyễn nói chuyện mộng huyễn với người mộng huyễn. Làm việc trong tánh Không như vậy tức là không tạo nghiệp, không làm. Cho nên làm người huyễn chính là làm (hành) Đại thừa.

Nhưng tánh Không chân thật nào cũng đi kèm với đại bi, tánh Không như ánh sáng của mặt trời và đại bi như sự tỏa chiếu của nó. Tánh Không mà vẫn đại bi vì người, vì đền đáp ân Phật, không để Tam Bảo dứt mất. Tánh Không là không gian vô quái ngại để đại bi hoạt động. Không có tánh Không thì đại bi chỉ là xúc cảm ngắn hạn và chấp trước, giới hạn trong vòng mâu thuẫn ta-người, đây-kia. Và không có đại bi thì tánh Không chỉ là không gian bao la của một sự giải thoát cho một cá nhân, một không gian vô trách nhiệm, nên là một không gian chết, vì không có sự sống của vũ trụ này. Tánh Không mở rộng đại bi và làm cho đại bi được giải thoát, ngược lại, đại bi làm cho tánh Không mở rộng đến ôm trùm pháp giới và làm cho tánh Không được sống động trong chính bản chất của tánh Không là trùng trùng duyên khởi.

 

ĐẠI CA DIẾP

Phật bảo Đại Ca Diếp: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

Ca Diếp bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, con đi khất thực trong xóm nhà nghèo. Lúc ấy Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:

“Thưa ngài Ca Diếp! Bỏ nhà giàu đi khất thực nhà nghèo là có tâm từ bi mà không thể bủa khắp. Thưa ngài Ca Diếp, ngài nên trụ trong sự bình đẳng của tất cả các pháp, khất thực với sự quan tâm đến tất cả chúng sanh trong mọi lúc. Vì không ăn mới nên đi khất thực vậy. Vì hoại tướng hòa hiệp mới nên cầm lấy miếng thức ăn vậy. Vì chẳng thọ, mới nên thọ đồ ăn ấy. Vì tưởng làng xóm trống không mà vào nơi làng xóm. Có thấy sắc cũng như mù, có nghe tiếng cũng như vang, có ngửi mùi cũng như gió, vị món ăn chẳng phân biệt. Cảm thọ các xúc như trí chứng. Biết các pháp là tướng như huyễn: không tự tánh, không tha tánh, trước vốn chẳng cháy, nay cũng không tắt.

 

Tâm từ bi bủa khắp thì đồng đẳng với pháp tánh. Pháp tánh bình đẳng ở trong tất cả các pháp. Cho nên “trụ trong pháp bình đẳng” nghĩa là trụ trong pháp tánh, không giàu không nghèo, không cao không thấp, không sạch không dơ. Nhưng tánh bình đẳng của pháp tánh không phải là một sự bình đẳng vô cơ mà là bình đẳng hữu cơ: trong đó tâm từ bi bủa khắp làm sinh động và nuôi dưỡng mọi vật, như nước. Ở đây nếu hiểu được từ bi và trí huệ đi đôi với nhau, nuôi dưỡng nhau như thế nào, chúng ta có thể hành theo để thấy cuộc đời là sự biểu lộ của trí huệ và từ bi.

Trong pháp tánh, không có người ăn, người thọ, đồ ăn, không có phân biệt thấy, nghe, hương, vị. Bởi vì pháp tánh là nền tảng, là môi trường cho các thứ đó hiện hành, như đại dương bất động là nền tảng, môi trường cho các làn sóng hiện khởi, nên nếu chạy theo các thứ có sanh có diệt ấy thì bỏ quên pháp tánh, chạy theo sóng thì quên mất đại dương. Còn nếu ở trong pháp tánh như đại dương bủa khắp mà thọ các thứ ấy, thì đó gọi là “thọ như trí chứng”, có làm mà như chơi vậy thôi. Vì, “Hay khéo phân biệt tướng các pháp. Trong đệ nhất nghĩa hằng bất động”.

Thọ các pháp mà “biết các pháp là tướng như huyễn: không tự tánh, không tha tánh, trước vốn chẳng sanh, nay cũng không diệt”, thì ngay đó giải thoát.

 

“Ngài Ca Diếp! Nếu có thể chẳng bỏ tám tà mà vào tám giải thoát, dùng tướng tà mà vào chánh pháp, dùng một bữa ăn mà thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và các bậc hiền thánh, rồi sau mới có thể ăn. Ăn như vậy chẳng phải có phiền não, chẳng phải lìa phiền não; chẳng phải nhập định tâm, chẳng phải xuất định tâm; chẳng phải trụ thế gian, chẳng phải trụ Niết bàn. Người làm cúng thí ấy, không có phước lớn, không có phước nhỏ, không làm có thêm, không làm bớt đi. Đó là chân chánh nhập Phật đạo, chẳng nương theo Thanh Văn.

“Ngài Ca Diếp! Nếu ăn như vậy là chẳng ăn luống không đồ cúng thí của người vậy.”

“Thế Tôn! Lúc ấy con nghe nói lời ấy được sự chưa từng có. Bèn đối với tất cả Bồ tát khởi lòng kính trọng sâu xa. Lại nghĩ thế này: “Người danh gia này thật trí huệ, biện tài mới có thể như vậy. Ai nghe mà chẳng phát tâm Bồ đề vô thượng chánh đẳng chánh giác?” Con từ lúc ấy chẳng còn lấy hạnh Thanh Văn, Độc Giác Phật khuyên bảo cho người. Thế nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

 

Vì các pháp là tướng như huyễn, khi thật trụ như huyễn, bồ tát có thể dùng các thứ thế gian (tám tà, tướng tà) mà vào pháp tánh và an trụ trong pháp tánh đó ‘hóa hiện’ các thứ thuận nghịch để hóa độ chúng sanh, vì các pháp thế gian hay xuất thế gian đều đồng pháp tánh. Ở trong pháp tánh đó thì có thể “dùng một bữa ăn mà thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và các bậc hiền thánh, rồi sau mới có thể ăn”. Ở trong pháp tánh mà ăn thì “chẳng phải có phiền não, chẳng phải lìa phiền não; chẳng phải nhập định tâm, chẳng phải xuất định tâm; chẳng phải trụ thế gian, chẳng phải trụ Niết bàn…” Ở trong pháp tánh như vậy gọi là “chân chánh nhập Phật đạo”.

Những lời nói của ngài Duy Ma Cật khi điều chỉnh, “chỉ trích” hạnh Thanh Văn, đều nhằm nói lên một điều: thay vì y vào các tướng bên ngoài mà tu của Thanh Văn, thì bồ tát y vào tánh mà tu, vừa “nền tảng” hơn, vừa bớt nhọc mệt mà có hiệu lực hơn. Điều này trong kinh Nhật Tụng nói là: “Xứng tánh tác Phật sự.”

 

TU BỒ ĐỀ

Phật bảo Tu Bồ Đề: “Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật.”

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con không kham nhận nổi việc đến thăm bệnh ông ấy. Tại sao thế? Nhớ lại trước kia, con có vào nhà ông khất thực. Lúc ấy Duy Ma Cật đón lấy bình bát của con, xúc đầy cơm, nói với con rằng:

“Thưa ngài Tu Bồ Đề! Nếu có thể bình đẳng đối với các đồ ăn, thì các pháp cũng bình đẳng. Các pháp bình đẳng, thì với các đồ ăn cũng bình đẳng. Khất thực như vậy mới có thể lấy đồ ăn.

“Nếu ngài Tu Bồ Đề chẳng đoạn dâm, nộ, si cũng chẳng chung cùng với chúng. Chẳng hủy hoại thân, mà theo Một Tướng. Chẳng diệt si ái mà sanh giải thoát. Dùng tướng ngũ nghịch mà đắc giải thoát. Cũng không giải thoát, không trói buộc. Chẳng thấy Tứ Đế, chẳng phải không thấy Tứ Đế. Chẳng phải đắc quả, chẳng phải không đắc quả. Chẳng phải phàm phu, chẳng phải lìa pháp phàm phu. Chẳng phải thánh nhân, chẳng phải không thánh nhân. Tuy thành tựu tất cả pháp, mà lìa tướng các pháp. Như thế mới nên nhận lấy đồ ăn.

 

Trụ trong pháp tánh, nghĩa là cái Một Tướng ấy thì đầy đủ công đức của pháp tánh. Công đức đó là sự tự do vô lượng, giải thoát vô lượng. Trong pháp tánh, có thân hay không có thân là bình đẳng, si ái chỉ là hoa đốm giả danh nên diệt hay không diệt đều là giải thoát. Tất cả mọi danh tướng, quan niệm – giải thoát, trói buộc, Tứ Đế, đắc quả, phàm phu, thánh nhân… – đều chẳng liên can gì đến Nó. Trong Nó không có Phật danh lẫn chúng sanh danh, không có sanh tử lẫn Niết bàn, tất cả các pháp bổn lai thanh tịnh, bổn lai tịch diệt. Đó là cái mà hệ thống Bát Nhã gọi là tánh Không.

Bồ tát là người tự do tuyệt đối: “Tuy thành tựu tất cả pháp” là tự do trong sanh tử, “mà lìa tướng các pháp” là tự do trong Niết bàn. Như thế Bồ tát không vướng mắc cả sanh tử lẫn Niết bàn.

 

“Nếu ngài Tu Bồ Đề không thấy Phật, không nghe Pháp, sáu vị thầy ngoại đạo kia Phú Lan Na Ca Diếp, Mạt Già Lê Câu Xa Lê Tử, San Xà Dạ Tỳ La Chi Tử, A Kỳ Đa Si Xá Khâm Ba La, Ca La Lưu Đà Ca Chiên Diên, Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử là thầy của ngài. Do ngài xuất gia theo họ, các vị thầy ấy đọa, ngài cũng đọa theo. Như vậy mới nên nhận lấy món ăn.

 

Trong pháp tánh tự do vô lượng, giải thoát vô lượng, việc gì dù có xảy ra đều như mộng như huyễn mà vẫn không lìa pháp tánh. Sự tự do vô lượng của pháp tánh có thể chấp nhận cho bất cứ sự việc gì xảy ra mà chẳng hề hấn gì đến nó. Như hư không có thể chấp nhận cho vô vàn hoa đốm xuôi ngược sanh ra mà hư không từ vô thủy đến vô chung vẫn thanh tịnh. Cho nên, chỉ có hoàn toàn đạt đến đến pháp tánh – cũng tức là Phật tánh – mới thật là giải thoát, vì không còn trệ ở sanh tử hay Niết bàn.

 

“Nếu ngài Tu Bồ Đề vào các tà kiến, chẳng đến Bờ Bên Kia, trụ nơi tám nạn, chẳng được “không có nạn”, đồng với phiền não, lìa bỏ pháp thanh tịnh. Ngài được Vô tránh tam muội, tất cả chúng sanh cũng đắc Định ấy. Những người cúng thí cho ngài chẳng gọi là phước điền. Những người cúng dường ngài đọa vào ba đường ác. Ngài nắm tay với các ma cùng làm bạn lữ. Ngài với các ma và các trần lao đều không khác biệt. Với tất cả chúng sanh có lòng oán hận, chê bai chư Phật, mỉa mai Pháp, chẳng gia nhập Tăng chúng, rốt cuộc không được diệt độ. Nếu ngài được như vậy mới nên nhận lấy món ăn.”

 

Tất cả yếu chỉ của những đoạn kinh trên là an trụ trong pháp tánh, “đó là chân chánh nhập Phật đạo”. Thật sự an trụ trong tánh thì các tướng chỉ là như huyễn, chỉ là phương tiện để độ chúng sanh. An trụ trong tánh thì tất cả mọi tạo tác trên mặt hình tướng đều chỉ là một màn kịch để giúp đỡ cho những người khác. An trụ trong tánh thì thủy chung trung thành với Phật đạo, còn những hình tướng biểu hiện bên ngoài, dù “có lòng oán hận với tất cả chúng sanh, chê bai chư Phật, mỉa mai Pháp, chẳng gia nhập Tăng chúng…” chỉ là những màn kịch như huyễn. Bồ tát là người trung thành với cái cốt lõi bất biến là tánh – Phật tánh – còn các tướng thì tùy duyên biểu hiện, miễn là độ được chúng sanh. Khi chứng ngộ được thật tánh, các tướng bấy giờ dù thuận dù nghịch chẳng nhiễm ô gì đến tâm, lúc ấy bắt đầu vở kịch vĩ đại cứu độ chúng sanh bằng đủ các phương tiện thiện xảo – trong một nghĩa của chữ thiện xảo, thiện xảo là như huyễn.

Khi an trụ trong tánh, thì không phải chỉ ngài Tu Bồ Đề đắc được Vô tránh tam muội, mà tất cả chúng sanh cũng đều đắc Định ấy. Đây là ý nghĩa câu nói “Sanh tử Niết bàn đều như giấc mộng đêm qua, tất cả chúng sanh bổn lai thành Phật” của kinh Viên Giác. Khi ấy “Ngài với các ma và các trần lao đều không khác biệt”, khi ấy chỉ có một vị pháp tánh nên “đồng với phiền não”, biểu hiện hình tướng “lìa bỏ pháp thanh tịnh”, khi ấy chỉ có một vị tự do, giải thoát cho nên “những người cúng dường ngài đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh” bởi vì xưa nay không có tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng.

Tóm lại nếu trực niệm pháp tánh thì sẽ đến như huyễn tam muội, và ngược lại, nếu tu như huyễn tam muội thì sẽ đạt đến pháp tánh. Pháp tánh như đại dương, như huyễn tam muội như sóng. Cả hai đều bổ túc, tựu thành lẫn nhau.

 

“Thưa Thế Tôn! Lúc ấy con nghe nói như vậy thì mờ mịt hoang mang, không biết là nói gì, cũng không biết trả lời thế nào. Con bèn để bát xuống, muốn ra khỏi nhà ông ấy.

Duy Ma Cật nói: “Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Ngài giữ bát chớ sợ. Ý ngài thế nào? Nếu Như Lai hóa hiện một người huyễn hóa, người huyễn ấy đem những việc ấy ra hỏi ngài, chừng ấy ngài có sự sợ chăng?”

Con đáp: “Không.”

Duy Ma Cật nói: “Tất cả các pháp như tướng huyễn hóa. Ngay đây ngài không có gì để phải sợ cả. Tại sao thế? Tất cả lời lẽ nói năng chẳng lìa tướng huyễn hóa ấy. Đến như người trí, không bám trước văn tự, nên không có gì sợ. Vì sao? Tánh văn tự là lìa. Không có văn tự, đó là giải thoát. Tướng giải thoát ấy, tức là các pháp vậy.”

“Khi Duy Ma Cật nói pháp ấy rồi, hai trăm thiên tử đắc pháp nhãn tịnh. Thế nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông được.”

 

“Ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức”. “Tất cả duy tâm tạo”. Tâm tịch tịnh thì chứng nghiệm Niết bàn, tâm ấy là Niết bàn. Tâm vọng động phân biệt thì hóa hiện ra sanh tử, tâm ấy là sanh tử.

Với người thấu triệt bản tánh của tâm – nó là tánh Không – thì sanh tử hay Niết bàn chỉ là những hóa hiện, những dạng thức, những trạng thái của tâm. Bởi thế mà không lo sợ hay hy vọng cái gì trong sanh tử hay trong Niết bàn.

Từ tướng huyễn hóa của thế gian có ra những lời lẽ, văn tự. Lời lẽ văn tự chẳng lìa tướng huyễn hóa ấy. Vậy thì nói năng, văn tự chỉ là trò chơi của người huyễn, có chút gì thật trong đó đâu để sợ. Tánh văn tự là lìa, văn tự chẳng đến các tướng huyễn, văn tự chẳng đến các văn tự, chẳng dính dáng với gì cả, như đại thứ năm, như ấm thứ sáu…

Không có văn tự, nghĩa là không có tâm phân biệt biến pháp giới vốn bình đẳng một vị thành các tướng khác biệt chống trái nhau, thì đó là giải thoát. Giải thoát là giải thoát khỏi tâm phân biệt biến mặt gương bình đẳng thanh tịnh thành muôn vàn hình bóng đa thù. Giải thoát khỏi tâm phân biệt nghĩa là vô tâm, trả tâm về thực tướng của nó, không vọng động, méo mó, biến chất.

“Tướng giải thoát ấy, tức là các pháp vậy”. Các pháp vốn là tướng giải thoát. Hãy có cái thấy (kiến) về điều này, thiền định về điều này, và sống (hạnh) theo điều này trong từng phút giây của đời sống. Đó là con đường Bồ tát.

 

-----oo0oo-----

Trích: Thực Hành Con Đường Bồ Tát Qua Kinh Duy Ma Cật

Giảng giải: Đương Đạo

NXB Thiện Tri Thức, 2015

Ảnh: Nguồn internet

Bài viết liên quan