PHẨM QUÁN CHÚNG SANH (PHẦN 2/2) - THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT - ĐƯƠNG ĐẠO

PHẨM QUÁN CHÚNG SANH (PHẦN 2/2)

THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT

ĐƯƠNG ĐẠO

-----oo0oo-----

Còn một cái gì khác với ta, khác với sự giải thoát của ta, thì đó là tăng thượng mạn. Trong Phật Pháp là: “Trong đại dương không chứa xác chết”.
PHẨM QUÁN CHÚNG SANH (PHẦN 2/2) - THỰC HÀNH CON ĐƯỜNG BỒ TÁT QUA KINH DUY MA CẬT - ĐƯƠNG ĐẠO

 

Bấy giờ trong nhà của trưởng giả Duy Ma Cật có một thiên nữ, nghe lời dạy này về Pháp của những Bồ tát đại anh hùng, vui thích, sung sướng, đại hoan hỷ bèn hiện thân ra, đem hoa trời rải trên những Bồ tát và các vị đại Đệ tử. Hoa đến các Bồ tát đều rơi xuống đất, đến các đại Đệ tử thì mắc vào chẳng rớt. Các vị đại Đệ tử này dùng thần lực để phủi bỏ mà không phủi bỏ được.

Bấy giờ, thiên nữ hỏi tôn giả Xá Lợi Phất: “Thưa ngài, tại sao phải phủi bỏ hoa?”

Đáp rằng: “Hoa này chẳng như pháp nên phải phủi bỏ.”

Thiên nữ nói: “Xin ngài chớ nói hoa này là chẳng như pháp. Tại sao như vậy? Hoa này không có tư tưởng tạo tác cũng không phân biệt. Tạo tác tư tưởng và phân biệt là do ngài tự có. Nếu xuất gia trong Phật pháp, mà có tư tưởng tạo tác, có phân biệt thì chẳng như pháp; nếu không có tư tưởng tạo tác, không phân biệt là như pháp. Ngài hãy nhìn các Bồ tát, hoa chẳng dính mắc bởi vì đã đoạn tất cả tưởng phân biệt. Ví như người lúc sợ hãi, thì ma quỷ mới được dịp. Cũng như vậy các vị Đệ tử sợ hãi sanh tử, cho nên sắc, thanh, hương, vị, xúc mới được dịp, còn người đã lìa sợ hãi thì tất cả năm dục không làm gì được. Tập khí kiết sử chưa hết, hoa bèn dính mắc vào thân vậy; tập khí kiết sử hết rồi hoa không dính mắc được vậy.”

 

Ở đây là cách giải quyết sanh tử của Đại thừa: sanh tử chỉ là cái méo mó, hư vọng của chúng ta, cho nên cách thanh toán, diệt trừ nó không phải là giải thoát khỏi nó, trốn tránh khỏi nó, mà là chữa trị cái thấy sai lầm của mình, cái thấy sai lầm hết thì sanh tử không còn ở đâu cả. Có rất nhiều thí dụ trong kinh điển nói về việc này. Một thí dụ là sợi dây mà thấy lầm thành con rắn (sanh tử). Khi đã thấy lầm ra con rắn, vấn đề không phải là trốn thoát khỏi nó, có trốn thoát khỏi con rắn-sợi dây thì sự sợ hãi vẫn còn, dầu đối tượng không còn trước mặt nữa. Cách giải quyết rốt ráo, trọn vẹn là thấy được sự thật: con rắn không hề có, đó chỉ là việc thấy lầm, từ xưa nay chỉ có sợi dây mà thôi.

Cái hoa trời hay sắc, thanh, hương, vị, xúc tự chúng không có tư tưởng tạo tác hay phân biệt. Chúng không có vấn đề gì về phía chúng cả. Chỉ có “tư tưởng tạo tác và phân biệt là do ngài tự có”. Thực tại thì chẳng phải Niết bàn hay sanh tử, nó vốn là tánh Không từ tánh lẫn tướng, bởi thế chỉ có “tư tưởng tạo tác và phân biệt” thấy ra là có sanh tử. Lỗi lầm không ở sanh tử, vì sanh tử không thực có, lỗi lầm ở “tư tưởng tạo tác và phân biệt” của chính mình. Lỗi lầm không ở hoa đốm giữa hư không vì hoa đốm giữa hư không không thể có, lỗi lầm ở nơi con mắt nhìn lâu sanh mỏi thấy ra hoa đốm của mình.

Khi nào tâm thức không có tư tưởng tạo tác và phân biệt, khi ấy thực tại bắt đầu lộ diện ngay trước mắt mình. Và thực tại càng lộ diện, cái thật càng hiện tiền bao nhiêu thì những tư tưởng tạo tác và phân biệt, cái hư vọng và điên đảo, càng mất chỗ đứng bấy nhiêu. Khi nào cái không trụ không gốc hiện tiền thì những thứ gốc rễ hư vọng đều bị nhổ sạch: “Vạn dặm mây quang vạn dặm trời…” (Vua Trần Thái Tông).

 

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: “Thiên nữ ở trong nhà này đã lâu chưa?”

Đáp rằng: “Con ở nhà này lâu như sự giải thoát của trưởng lão,”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Ở đây lâu vậy ư?”

Thiên nữ nói: “Sự giải thoát của trưởng lão cũng có lâu sao?”

Ngài Xá Lợi Phất lặng thinh không đáp.

 

Trong cái nhìn của Đại thừa, mọi người dù ở cấp độ nào cũng cần xiển dương Pháp khi có cơ hội, và vì thế có thể đóng bất cứ vai nào để hiển bày Pháp: “Thích hợp dùng thân Thanh Văn để được độ, bèn hiện thân Thanh Văn mà thuyết pháp cho; thích hợp dùng thân chư thiên để được độ bèn hiện thân của chư thiên mà thuyết pháp cho…” (Phẩm Phổ Môn). Bởi thế, sự đối đáp giữa thiên nữ và ngài Xá Lợi Phất chỉ có ý nghĩa là triển khai cái thấy thực tại cho đại chúng, chứ không phải ngài Xá Lợi Phất không hiểu gì, hoàn toàn bất ngờ với cái thấy trong giải thoát như thế này. Chúng ta tuần tự theo dõi câu chuyện đối đáp này để sáng tỏ những vấn nạn của chúng ta.

– Thiên nữ ở trong nhà này đã lâu chưa?

Tất cả chúng ta ở đây, trong sanh tử này, đã lâu chưa?

– Con ở nhà này lâu như sự giải thoát của trưởng lão.

Với người đã giải thoát, đã sống trong cái không có thời gian thì cái sanh tử ngày nào “chỉ như một giấc mộng đêm qua”, không thể nói là tôi giải thoát từ năm nào kiếp nào. Tiến lên một mức độ nữa, sự giải thoát hiện giờ đây nó vốn đã giải thoát như thế từ vô thủy, trên nền tảng cái vốn đã giải thoát đó, tôi đã vọng lập lên một sanh tử hư vọng cho tôi, một trường hoa đốm cho tôi, và bây giờ khi mọi cái hư vọng hoa đốm đã tiêu tan, tôi không thể nói là tôi giải thoát từ lúc nào, lâu hay mau. Đồng đẳng với cái vốn đã giải thoát đó của trưởng lão là sự việc ở trong nhà này của thiên nữ và sự việc ở trong sanh tử của chúng ta. “Lâu như” nghĩa là sự việc giải thoát của một bậc A La Hán cùng đặt trên một nền tảng như sự việc ở trong sanh tử của chúng ta. Nền tảng đó là không có thời gian và vốn đã giải thoát. Đây là cái thấy triệt để, sự thiền định triệt để và sự hành xử triệt để cho chúng ta. (Nhưng nói như thế chỉ là một lối tiếp cận, mỗi người chúng ta phải tìm lấy cánh cửa mở cho mình. Đâu có thể nào nói cho hết về một câu đơn giản: “Con ở nhà này đã lâu như sự giải thoát của trưởng lão”.)

– Ở đây lâu vậy ư?

– Sự giải thoát của trưởng lão cũng có lâu sao?

Chúng ta hãy tự hỏi, sự việc sanh tử của chúng ta cũng có lâu sao? Ngay đó chỉ có sự lặng thinh không hý luận vô thủy vô chung của cái bổn nhiên.

 

Thiên nữ nói: “Như sao mà bậc kỳ cựu đại trí lại lặng thinh?”

Đáp rằng: “Giải thoát, không có chỗ cho lời nói. Thế nên trong đấy tôi chẳng biết nói sao.”

Thiên nữ nói: “Lời nói, văn tự đều là tướng giải thoát. Tại vì sao thế? Giải thoát chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng ở chặng giữa. Thế nên, thưa ngài Xá Lợi Phất, chớ lìa văn tự mà nói giải thoát. Tại sao như vậy? Tất cả các pháp đều chính là tướng giải thoát.”

 

Giải thoát là giải thoát của cả bản thể và hiện tượng, của tánh lẫn tướng. Trong tánh giải thoát, tất cả hình tướng đều giải thoát, vì tất cả tướng đều là tánh Không. Tánh Không này được thể nghiệm khi quán xét “văn tự, lời nói chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặng giữa”, và tất cả các pháp đều chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở chặng giữa, nên tất cả các pháp là tánh Không, là giải thoát.

 

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: “Chứ chẳng phải lìa tham, sân, si là giải thoát sao?”

Thiên nữ đáp: “Phật vì người tăng thượng mạn mà nói lìa tham sân si là giải thoát, còn người không có tăng thượng mạn, Phật nói tánh của tham sân si là giải thoát.”

 

Tăng thượng mạn đây là sự kiêu mạn tinh vi, sự khinh thị một cái khác với mình. Mình đây là sự trong sạch của một cái giải thoát đứng riêng, cái khác với mình đây là sanh tử mà cụ thể là tham sân si. Với một người có quan niệm như vậy, thì lìa tham sân si là giải thoát. Nhưng với một giải thoát rộng lớn và tận nguồn hơn, tánh của tham sân si là giải thoát. Tham sân si hay từ bi hỷ xả là biểu hiện của bản tánh của tâm, của cội nguồn vô trụ, và vì thế chúng cũng vô trụ, nghĩa là tự thân chúng là giải thoát. Và trong một sự giải thoát rộng lớn hơn, sự giúp đỡ người khác phải rộng lớn hơn. Nhưng vấn đề không phải là nói, vấn đề là chứng cho được tánh của các sóng là nước, tánh của các hình bóng là gương, để ở nơi tánh bình đẳng đó mà giải thoát cho người khác.

 

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Hay thay! Hay thay! Thiên nữ! Cô đắc cái gì, chứng cái gì mà biện tài như vậy?”

Thiên nữ đáp: “Con không đắc, không chứng, mới biện tài như vậy. Tại vì sao thế? Nếu có đắc, có chứng thời trong Phật Pháp là tăng thượng mạn.”

 

Còn một cái gì khác với ta, khác với sự giải thoát của ta, thì đó là tăng thượng mạn. Trong Phật Pháp là: “Trong đại dương không chứa xác chết”.

 

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ: “Trong ba thừa, thiên nữ cầu thừa nào?”

Thiên nữ thưa: “Dùng pháp Thanh Văn để giáo hóa chúng sanh, con làm Thanh Văn. Dùng pháp duyên khởi để giáo hóa chúng sanh, thì con làm Bích Chi Phật. Dùng pháp đại bi để giáo hóa chúng sanh, thì con làm Đại thừa.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Như người vào rừng chiêm bặc thì chỉ ngửi thấy hương chiêm bặc, chẳng ngửi thấy hương khác. Cũng vậy, nếu vào nhà này, chỉ ngửi thấy hương công đức Phật, chẳng ngửi thấy hương công đức Thanh Văn và Bích Chi Phật.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Có những vị Đế thích, Phạm vương, Tứ thiên vương và các thiên long quỷ thần vào nhà này nghe thượng nhân đây giảng thuyết chánh pháp, đều mến thích hương công đức Phật, phát tâm Bồ đề mà đi ra.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Con ở nhà này đã mười hai năm, chưa hề nghe nói về pháp Thanh Văn, Bích Chi Phật, chỉ nghe nói về pháp đại từ bi của Bồ tát và những sự bất khả tư nghì của Phật.

 

Vì không là gì tất cả, nên có thể vì lòng bi mà “làm” tất cả. Vì không có giới hạn nào trong tâm, nên có thể tùy duyên mà ứng hiện ra những hình tướng hữu hạn. Đó là sự phong phú giàu có của cái Không hợp nhất với lòng đại từ bi.

Sự sống của Đại thừa chỉ có một mùi hương duy nhất, đó là lợi mình lợi người, và sự lợi mình lợi người đó càng mạnh mẽ, hiệu quả thì càng tiến lên gần quả vị Phật, bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Bồ tát không bỏ một pháp nào trong việc tu hành, nhưng có tu hành gì cũng quy về, cũng ở trong một mùi hương duy nhất: hương công đức Phật. Người thực hành con đường Bồ tát phải đem mọi sự vào mùi hương duy nhất này, để bao giờ mình cảm nghiệm được cái mùi hương vô hình đó trong cuộc sống thường nhật của mình thì lúc đó cuộc đời của mình bắt đầu hiện hữu trong Phật tánh.

 

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nhà này thường có tám sự chưa từng có, khó được tự biểu hiện ra. Đó là tám sự gì?

“Nhà này thường có ánh sáng sắc vàng ngày đêm soi chiếu, chẳng cần ánh sáng của mặt trời mặt trăng. Đó là sự chưa từng có khó được thứ nhất.

“Nhà này hễ ai vào thì không bị các dơ nhiễm làm phiền não. Đó là sự chưa từng có khó được thứ hai.

“Nhà này thường có Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, các vị Bồ tát từ các phương khác tụ hội không ngớt. Đó là sự chưa từng có khó được thứ ba.

“Nhà này thường nói sáu ba la mật và pháp bất thối chuyển. Đó là sự chưa từng có khó được thứ tư.

“Nhà này thường tấu nhạc bậc nhất của trời người, vang ra vô lượng âm thanh giáo hóa của Pháp. Đó là sự chưa từng có khó được thứ năm.

“Nhà này có bốn kho tàng lớn, chứa đầy báu vật cung cấp cho người nghèo thiếu, cầu được vô tận. Đó là sự chưa từng có khó được thứ sáu.

“Nhà này có Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc, Phật Bảo Đức, Phật Bảo Viêm, Phật Bảo Nguyệt, Phật Bảo Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử Hưởng, Phật Nhất Thiết Lợi Thành, vô lượng chư Phật mười phương như vậy, khi thượng nhân đây nghĩ tới liền đến rộng nói pháp tạng bí yếu của chư Phật; nói xong thì trở về. Đó là sự chưa từng có khó được thứ bảy.

“Nhà này tất cả cung điện rực rỡ và các cõi Tịnh độ trang nghiêm của chư Phật đều hiện trong đây. Đó là sự chưa từng có khó được thứ tám.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nhà này thường hiện tám sự chưa từng có khó được như vậy. Có ai thấy những sự bất tư nghị như thế mà còn ham thích pháp Thanh Văn ư?”

 

Đây là do tâm thanh tịnh rốt ráo mà thường hiện tám sự chưa từng có khó được này vậy. Hễ tâm càng thanh tịnh thì các sự việc này càng biểu hiện đầy đủ. Tâm càng thanh tịnh thì quang cảnh chung quanh (phòng, nhà) càng sáng, một ánh sáng không phải của mặt trời mặt trăng; người ta có thể “nghe” được vô tình “nói” pháp; ngôi nhà càng biểu hiện những rực rỡ của cõi trời và sự nghiêm tịnh của các cõi Tịnh độ đồng thời cùng tuôn trào những phước đức vật chất và những công đức của tâm thức; và với sự thanh tịnh như thế, sẽ có sự lai vãng của chư thiên và chư đại Bồ tát, chư Phật. Vì tâm vô ngại nên nó vô ngại với chư Phật và các cõi Phật.

Tóm lại, đây không phải là những “phép lạ”, mà nếu nói chữ phép lạ, thì đó là những phép lạ của tâm vô ngại. Những sự chưa từng có khó được này chính là những sự chưa từng có khó được của bản tâm thanh tịnh. Hễ chánh báo tới mức nào thì y báo thể hiện ra ở mức tương đương. Cho nên những người tu hành như chúng ta có thể dùng những sự việc đó như những tiêu chuẩn để đo lường mức độ thanh tịnh của tâm hầu càng tiến, tiến mãi…

 

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Sao cô không chuyển thân nữ đi?”

Thiên nữ nói: “Mười hai năm nay con tìm mãi tướng nữ nhân mà chẳng thể được, thì lấy gì mà chuyển? Như nhà huyễn thuật hóa ra một người nữ huyễn, nếu có người hỏi, sao không chuyển thân nữ đi, người ấy hỏi có đúng không?”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Không đúng. Huyễn hóa không có tướng thực thì lấy gì mà chuyển?”

Thiên nữ nói: “Tất cả các pháp đều cũng như vậy; không có tướng thực. Sao có thể hỏi người huyễn, sao không chuyển thân nữ kia đi?”

Tức thời thiên nữ dùng thần thông lực biến ngài Xá Lợi Phất thành như thân thiên nữ, còn thiên nữ tự hóa thân thành như ngài Xá Lợi Phất mà hỏi rằng: “Sao ngài không chuyển thân nữ?”

Ngài Xá Lợi Phất trong hình tướng thiên nữ đáp rằng: “Tôi nay chẳng biết vì sao lại chuyển biến thành thân nữ.”

Thiên nữ nói: “Thưa ngài Xá Lợi Phất, nếu ngài chuyển được thân nữ này thì tất cả người nữ cũng có thể chuyển. Như ngài Xá Lợi Phất, chẳng phải nữ mà hiện thân nữ, tất cả người nữ cũng lại như vậy: tuy hiện thân nữ mà chẳng phải nữ. Thế nên Phật nói: Tất cả các pháp chẳng phải nam chẳng phải nữ.”

Tức thời thiên nữ thu lại thần lực, thân ngài Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên nữ hỏi ngài Xá Lợi Phất: “Thưa ngài sắc tướng thân nữ bây giờ ở đâu?”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Sắc tướng thân nữ chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở.”

Thiên nữ nói: “Tất cả các pháp cũng lại như vậy: chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở. Chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở, đó là lời Phật dạy.”

 

Trong một tâm thức bình thường, nghĩa là sự hoạt động của nó chỉ ở trong ý thức và năm thức giác quan, mọi sự đều là hình tướng có thực, cứng đặc, cố định, và do đó mà đời sống là một vấn nạn, đời sống là sanh tử. Với một tâm thức đã đạt đến nguồn cội của nó, nền tảng của nó, bản tánh của tâm thức đó, thì tất cả đều chỉ là bóng dáng, đều như huyễn. Không chỉ sắc tướng thân nữ hay thân nam là một vấn nạn không thể giải quyết và do đó tạo ra vô số khổ đau, mà tất cả công việc, hành động trong một tâm thức không đạt đến bản tánh của nó đều gây vấn đề: tôi thực hành Phật pháp, tôi giúp đỡ chúng sanh, tôi bố thí, tôi hơn, tôi thua… Tất cả mọi sự khi không được nhìn thấy thật tướng của chúng đều là những cái ngăn ngại, gây xung đột, chia rẽ, phân biệt và tạo ra thế giới sanh tử khổ đau.

 

Phải ở nơi bản tánh của tâm thức để nhìn thấy tất cả đều là những hóa hiện: thân nam, thân nữ, công việc của tôi, Phật sự của tôi… Phải ở nơi bản tánh của tâm thức để thấy dầu tôi có làm những công việc tốt đẹp đến đâu, giá trị đến đâu, thì những công việc ấy chỉ là những hành động của “người huyễn có làm, nhưng vốn không làm”, “người huyễn làm việc huyễn”. Đó là những việc làm của người “từ gốc không trụ, lập tất cả pháp”. Phải ở nơi bản tánh Pháp thân, để có thể nhìn thấy mọi sự là Hóa thân, tức là sự hóa hiện của cái vĩnh viễn không có hình tướng, vĩnh viễn bất động đó. Có như vậy mới bắt đầu sự giải thoát mà không lìa hành động của Đại thừa: giải thoát bằng cách giúp đỡ, cứu thoát chúng sanh.

Thân nữ không thể chuyển thành thân nam ngay bây giờ, nghiệp này không thể chuyển thành nghiệp khác ngay bây giờ, nước không thể chuyển thành lửa ngay bây giờ. Chỉ có ở nơi bản tánh, mọi sự đều tức thời chuyển hóa thành như huyễn, đó là sự “chuyển thân” toàn triệt nhất.

Chỉ ở trong bản tánh, vấn đề mới được giải quyết: sắc tướng thân nữ chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở; công việc của tôi chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở (và do đó mà không đụng chạm, cạnh tranh với công việc của ai cả); cuộc đời của tôi chẳng ở đâu, không đâu chẳng ở (và do đó mà cuộc đời ấy là sự giải thoát tự thân nó).

Cho nên sự thực hành là đi vào bản tánh của tâm thức, nơi không có niệm tưởng nên không có ‘ở đâu’ hay ‘chẳng ở đâu’, để từ đó mà thấy mọi sự đều như huyễn và đó chính là sự chuyển thân của toàn bộ sanh tử thành giải thoát.

 

Ngài Xá Lợi Phất hỏi thiên nữ: “Cô chết ở đây rồi sẽ sanh nơi đâu?”

Thiên nữ đáp: “Những thân mà Phật biến hóa ra sanh ở đâu, con sẽ sanh như những hóa thân đó.”

Tôn giả nói: “Nhưng những thân mà Phật biến hóa ra thì không có chết cũng không có sanh.”

Thiên nữ nói: “Chúng sanh cũng như thế, không có chết cũng không có sanh.”

 

Đức Phật vì đã đạt đến Pháp tánh trọn vẹn nên có thể biến hiện ra nhiều thân ở khắp các chỗ. Người tu hành cũng phải quán chiếu thân mình (và thân chúng sanh) y như vậy: tuy là một bên do nghiệp thanh tịnh biến hóa ra, một bên do nghiệp bất tịnh biến hóa ra, nhưng cả hai đều cùng một tính cách biến hóa. Và càng thấu đạt tính cách biến hóa này, nghiệp của người ta càng trở nên thanh tịnh.

Quán thấy như vậy, người ta sẽ đi đến cái thấy rốt ráo, sự giải thoát rốt ráo khỏi sanh tử (mà vẫn ở trong sanh tử): Những thân mà Phật biến hóa ra thì không có chết cũng không có sanh, chúng sanh cũng như thế – cũng là cái được biến hóa ra – không có chết cũng không có sanh. Sanh tử ở đâu nữa?

Chữ “chết” ở đây là dịch chữ “một” của ngài Cưu Ma La Thập. Trong bản tiếng Anh của Thurman dịch từ tiếng Tây Tạng thì chữ đó được dịch là “chuyển di” (transmigrate). Đây là sự chuyển di tâm thức (chết). Với một cái thấy rốt ráo, “chúng sanh (và dĩ nhiên có chúng ta trong đó) cũng như thế, không có chuyển di cũng không có tái sanh”. Sống được với cái thấy ấy, chắc chắn chúng ta vượt khỏi được sự chuyển di, trung ấm và tái sanh. Người tu hành phải có định lực để duy trì, sống với cái thấy này hầu vượt qua trung ấm và tái sanh.

 

Ngài Xá Lợi Phất hỏi thiên nữ: “Bao lâu nữa thiên nữ sẽ đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”

Thiên nữ đáp: “Bao giờ ngài trở lại làm phàm phu bấy giờ con sẽ đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Tôi trở lại làm phàm phu, không làm gì có chuyện đó.”

Thiên nữ nói: “Con đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không làm gì có chuyện đó. Tại vì sao thế? Bồ đề không có chỗ trụ cho nên không có chỗ đắc.”

Ngài Xá Lợi Phất nói: “Vậy thì việc nay chư Phật đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đã đắc, sẽ đắc, số lượng hằng hà sa, thì gọi là gì?”

Thiên nữ nói: “Ấy đều là theo văn tự quy ước thế tục tính toán mà nói có ba đời, chứ chẳng phải Bồ đề có quá khứ, vị lai, hiện tại.

“Thưa ngài Xá Lợi Phất, ngài có đắc quả A La Hán không?’’

Đáp rằng: “Vì không chỗ đắc cho nên đắc.”

Thiên nữ nói: “Chư Phật, Bồ tát cũng như thế: vì không chỗ đắc cho nên đắc.”

Bấy giờ ngài Duy Ma Cật nói với ngài Xá Lợi Phất: “Thiên nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức chư Phật, đã có thể du hý (vui chơi) thần thông Bồ tát, những nguyện đã thành, trụ nơi bất thối chuyển; do theo bổn nguyện mà tùy ý biểu hiện để giáo hóa chúng sanh.”

 

Thực tại là cái vốn hiện hữu ở đó, không từ đâu, không do đâu. Nó không phải là một vật, một cái gì giới hạn để có thể dùng thân mà đắc, dùng tâm trí tư tưởng mà đắc. Chúng ta vẫn ở trong nó từ vô thủy đến nay, nhưng chúng ta luôn luôn tự mình ngăn cách với nó, ngăn che giữa chúng ta với nó bằng đủ loại phiền não, đủ loại tư tưởng: tôi và “thực tại”, tôi và người khác, tôi và thiên nhiên, tôi muốn có cái đó, tôi muốn trở thành thế kia, tôi đã mất cái nọ… Tất cả những tưởng và tướng đã được tạo ra và sẽ được tạo ra đã ngăn che giữa chúng ta và thực tại.

Chưa từng có ai rời lìa khỏi Bồ đề, cho nên cũng không có ai đắc Bồ đề. Đắc Bồ đề là ý nghĩ của một tâm thức nhỏ hẹp hình dung ra Bồ đề là một đối tượng nhỏ hẹp có thể nắm lấy bằng thân tâm nhỏ hẹp của mình. Khi nào cái thân tâm đó bị thua cuộc, bị hàng phục, chịu đầu hàng, thì thực tại tràn ngay vào trong đó. Điều này là một sự thật đơn giản: thực tại thì vốn tự hiện hữu, mà thân tâm thì vốn không hiện hữu; cái vô hạn thì vốn tự hiện hữu, còn cái hữu hạn thì vốn không hiện hữu.

Cho nên sự tu hành đích thực là phải ý thức rõ ràng mình đang ở trong thực tại và những gì mình làm không phải là thêm thắt trang hoàng gì cho thực tại, mà những gì mình làm là tự gỡ bỏ những ngăn cản, những che chướng mình đã tự tạo ra từ đời lâu xa khiến ngay cả sự tu hành của mình cũng được thiết lập trên một nền tảng nhiễm ô và lầm lạc. Càng gỡ bỏ những ngăn che, thực tại càng hiển lộ. Càng ít cái “đắc” bao nhiêu cái “không chỗ đắc, không chỗ trụ” càng hiện tiền bấy nhiêu.

“Trở lại làm phàm phu ư? Không làm gì có chuyện đó.” “Đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư? Không làm gì có chuyện đó.”

Hãy tham thiền về “chuyện đó” đi.

 

-----oo0oo-----

Trích: Thực Hành Con Đường Bồ Tát Qua Kinh Duy Ma Cật

Dịch và Giảng giải: Đương Đạo

NXB Thiện Tri Thức, 2015

Ảnh: Nguồn internet

 

Bài viết liên quan