MƯỜI BỐN CÔNG ĐỨC VÔ ÚY CỦA BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM - KINH LĂNG NGHIÊM-HÀNH GIẢI - ĐƯƠNG ĐẠO

MƯỜI BỐN CÔNG ĐỨC VÔ ÚY CỦA BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

KINH LĂNG NGHIÊM - HÀNH GIẢI

ĐƯƠNG ĐẠO

-----oo0oo-----

Thế giới này là sự chia lìa vô phương cứu chữa. Tất cả chỉ được hợp nhất trong tánh nghe, cho nên tánh nghe là sự cứu độ đệ nhất của bậc cứu độ đệ nhất là Đức Quán Thế Âm.
MƯỜI BỐN CÔNG ĐỨC VÔ ÚY CỦA BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM - KINH LĂNG NGHIÊM-HÀNH GIẢI - ĐƯƠNG ĐẠO

 

Bạch Thế Tôn, lại do con dùng Vô tác diệu lực của Kim cương Tam muội huân tu tánh nghe này, cùng mười phương ba đời tất cả chúng sanh sáu nẻo đồng một bi ngưỡng, nên khiến các chúng sanh nơi thân tâm con được mười bốn công đức vô úy.

 

Hoàn toàn ở trong tánh nghe hay tánh giác và tánh giác không hề phân ly với đồng thể đại bi thế nên tất cả chúng sanh đều ở trong thân tâm của Quán Thế Âm và thân tâm Quán Thế Âm ở trong tất cả chúng sanh. Như nước của đại dương ở trong tất cả các làn sóng và bọt sóng, và tất cả các làn sóng và bọt sóng ở trong nước của đại dương. Do sát sao với chúng sanh như thế nên phẩm Phổ Môn Kinh Pháp Hoa nói, “đáng dùng thân gì để được độ, liền hiện thân ấy mà thuyết pháp cho. Gặp khi tai nạn nguy cấp, bèn niệm cung kính Bồ tát Quán Thế Âm, liền được giải thoát”.

“Các chúng sanh nơi thân tâm con”, người nào tin rằng mình ở trong thân tâm Quán Thế Âm thì cầu mong gì hẳn được như ý.

Ba mươi hai Hóa thân đặt trên nền tảng tánh Không và sức Từ. Mười bốn công đức vô úy đặt nền trên tánh Không và đại bi. Tánh Không và Từ Bi hợp nhất nơi một Đại Bồ tát.

 

Một là, do con không tự quán cái âm thanh mà quán cái tánh quán, khiến cho chúng sanh khổ não kia trong mười phương quán âm thanh con liền được giải thoát.

 

Để đến tam muội Kim cương vô tác diệu lực do huân tu tánh nghe thì không quán theo thanh trần mà quán tánh quán, tức là quán tánh đang nghe. Quán tánh đang nghe thì trùm khắp mọi thanh trần. Đây là một ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm.

Do quán tánh quán nên trở về nguồn tánh cùng thế giới chúng sanh là một tánh và vì là tánh nên không bị ô nhiễm bởi các tướng khác biệt, chia tách của chúng sanh. “Quán cái tánh quán” thì trở về với nguồn tánh. Nhưng vì “cùng với tất cả chúng sanh trong sáu nẻo đồng một bi ngưỡng” nên tánh quán ấy đồng thể đại bi với tất cả chúng sanh. Như thế ngài là tánh nghe của tất cả chúng sanh luôn luôn đang nghe tất cả chúng sanh, cho nên có danh hiệu là Quán Thế Âm.

Vô tác diệu lực là diệu lực của tánh nghe, không làm mà ứng khắp bất cứ chúng sanh nào tác ý liền ứng, như cái chuông không làm, bất động mà ai gỏ vào đều ra tiếng.

Chúng sanh khổ não trong mười phương “quán âm thanh con”, nghĩa là niệm danh hiệu của ngài. Khi ấy âm thanh của ngài hay danh hiệu của ngài trùm khắp pháp giới, đâu đâu cũng có mặt, đâu đâu cũng có thể cứu độ. Nơi ngài, tánh tướng là một nên chạm đến tướng danh hiệu của ngài thì tướng ấy thông làm một với tánh nghe của ngài nên liền được đáp ứng mà liền được giải thoát.

Danh hiệu của ngài là Hóa thân của ngài, Hóa thân ấy là một với Pháp thân “thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới”.Cho nên chạm đến danh hiệu ngài là chạm đến pháp thân “thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới”, thì chỗ nào lúc nào mà không có sự cứu độ của ngài.

 

Hai là, cái thấy biết được xoay trở lại, khiến các chúng sanh nếu có rớt vào lửa lớn, lửa chẳng thể đốt cháy.

 

Bồ tát Quán Thế Âm đã xoay cái thấy biết trở lại để hoàn toàn là tánh. Như thế, với ngài thuần chỉ có tánh Không, “tánh lửa chân Không, tánh Không chân lửa”. Niệm danh hiệu ngài thì tương ưng với tánh lửa chân Không, tam muội kim cương bất khả hoại này do đó có rớt vào trong lửa mà tâm hợp nhất với ngài thì thân không thể bị đốt cháy.Trong khi bình thường, lửa sân hận vừa khởi lên liền nghe nó, nó bèn tắt trong tánh nghe.Xoay trần tướng trở lại bản tánh, thì các trần tướng tiêu tan, tự giải thoát.

 

Ba là, quán cái nghe xoay trở lại, khiến các chúng sanh bị nước lớn cuốn trôi, nước chẳng thể làm chìm.

 

Quán cái nghe hoàn toàn đã xoay trở lại nguồn tánh, tức là nguồn của mọi năng lượng đất, nước, lửa, gió, đó là nguồn Diệu Lực vô tác. Do đó người bị nước cuốn quán niệm Bồ tát Quán Thế Âm tương ưng với nguồn năng lượng Diệu Lực vô tác này thì thoát khỏi nạn nước.

Xoay nghe thì đó là tánh nghe rỗng suốt không có không gian, không có thời gian, sanh tử liền thành hoa đốm.

 

Bốn là, diệt hết vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến các chúng sanh vào các nước quỷ, quỷ không thể hại.

 

Vọng tưởng là quỷ bên trong, diệt hết vọng tưởng, tâm không còn chút gì làm hại, thì quỷ bên ngoài đã không làm gì được mà từ bi hợp nhất với trí huệ còn làm cho quỷ được chuyển hóa, giải thoát.          
 

Năm là, huân tu cái nghe thành tánh nghe, sáu căn tiêu về bản tánh, đồng với cái tiếng, cái nghe, hay khiến chúng sanh đang khi bị hại, đao gảy từng đoạn, khiến cho binh khí dường như chém nước, như thổi ánh sáng, bản tánh không có sự lay động.

 

Huân tu cái nghe thành tánh nghe là đưa mọi cái nghe trở lại thành tánh nghe. Sáu căn tiêu trở về bản tánh nghĩa là sáu căn trở thành bản tánh, cái nghe cái tiếng đồng với bản tánh. Khi ấy chỉ có bản tánh, tánh nghe, cái nghe, cái tiếng được nghe đồng một vị. Đồng một vị bản tánh, một vị từ bi thì bản tánh không hại được bản tánh, từ bi không thể hại từ bi.

Xoay nghe liền không có bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Đó là diệu lực vô tác.

 

Sáu là, huân tu tánh nghe thuần sáng, sáng khắp pháp giới thì các tăm tối vốn không tự tánh, khiến cho chúng sanh như Dược xoa, La sát, Cưu bàn trà cho đến Tỳ xá giá, Phú đơn na….thảy, tuy ở gần bên cạnh mà mắt chúng chẳng thể thấy.

 

Đức Quán Thế Âm là tánh nghe thuần sáng, sáng khắp pháp giới, khiến các tăm tối trở thành thực chất của chúng là không tự tánh, do đó không thể làm hại chúng sanh do niệm ngài mà tương ưng được với tánh sáng khắp cả của ngài.      
Trí huệ là tánh sáng khắp cả, từ bi khiến chứng ngộ chúng sanh là một với mình, đây là Diệu lực vô tác của Bồ tát Quán Thế Âm.

 

Bảy là, các âm thanh hoàn toàn tiêu vào tánh, thấy nghe xoay lại nhập vào bản tánh, lìa các vọng trần, hay khiến chúng sanh chẳng thể bị gông cùm, xiềng xích trói buộc.

 

Căn trần thức hoàn toàn tiêu vào bản tánh, sanh tử trần tướng hoàn toàn tiêu vào Niết bàn tự tánh thì những gông cùm trói buộc của sanh tử trần tướng chẳng thể làm gì được, bởi vì trong tánh làm gì có gông cùm, xiềng xích?

Chúng ta cần thực hành miên mật dù chỉ một trong mười bốn thứ vô úy cũng đủ đưa tất cả căn trần thức về bản tánh để thoát khỏi sanh tử và những hiểm nguy của nó và cứu giúp chúng sanh khổ não khỏi hiểm nạn sanh tử.

 

Tám là, diệt dứt âm thanh, viên mãn tánh nghe, khắp sanh sức từ, hay khiến chúng sanh đi qua đường biển, giặc không thể cướp.

 

Diệt hết âm thanh không phải là phá hủy mọi chỗ phát ra âm thanh trong thế gian, không phải là phá hoại tướng thế gian mà là nghe cho được mọi âm thanh đều là tánh nghe. Như vậy là đưa tất cả tướng về tánh.

“Diệt dứt âm thanh, khắp sanh sức từ”, tánh nghe và sức từ không hai, bao la vô tận.

Ban đầu là đốn ngộ, thấy biết trực tiếp tánh nghe là gì. Sau đó trên nền tảng tánh nghe bất sanh bất diệt này, tiệm tu cho đến lúc “viên mãn tánh nghe”, tức là tất cả âm thanh đều là tánh nghe.

Khi tất cả tướng là một tánh thì đây là sức từ, thấy tất cả là một. Và tánh khắp tất cả pháp giới thì sức từ cũng khắp cả pháp giới.

 

Chín là, huân tu cái nghe thành tánh nghe, lìa các trần tướng, sắc không thể cướp hại, hay khiến tất cả chúng sanh nhiều dâm dục lìa xa tham dục.

 

Thấy biết trực tiếp tánh nghe, đó là ngộ, là nhất niệm tương ưng với tánh nghe, là Kiến đạo vị. Xoay tất cả âm thanh và cái nghe thành tánh nghe, viên mãn tánh nghe, đây là “huân tu”, là tiệm tu, là niệm niệm tương ưng với tánh nghe, là Tu tập vị.

Tu như vậy là tu con đường tánh nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, tu mười bốn công đức vô úy để đến cứu cánh là Diệu lực vô tác, đồng một bi ngưỡng với tất cả chúng sanh. Khi sắc hoàn toàn thành tánh, “không thể cướp hại”, mình đã hoàn toàn như vậy thì có thể làm cho người khác cũng được thoát khỏi sắc và tham dục.

 

Mười là, thuần âm không trần, căn và cảnh viên dung, không có năng đối sở đối, hay khiến tất cả chúng sanh căm giận lìa các nóng giận.        
 

Các âm thanh thì khác nhau vô số, tại sao gọi là thuần âm? Thuần âm là các thứ âm thanh khác nhau vô số nhưng thuần nhất là một tánh nghe. Các âm thanh bình đẳng trong tánh nghe. Tánh nghe là thuần âm, âm thanh thuần túy, bình đẳng một vị, trong đó căn cảnh viên dung, không có người nghe và âm thanh được nghe, thế nên thanh tịnh bổn nhiên, toàn khắp pháp giới.

Ở trong cái thuần âm không năng đối sở đối này thì có thể khiến chúng sanh mất các nóng giận, đối đãi, đấu tranh.

Xoay nghe thì các phiền não tham, sân, si, dâm dục… dứt bặt. Trong tánh nghe không có phiền não nên tánh nghe tịnh hóa mọi phiền não.

 

Mười một là, trần tướng tiêu tan, trở lại tánh vốn sáng thì pháp giới và thân tâm đều như ngọc lưu ly, sáng suốt không ngại, hay khiến tất cả các người u mê ám chướng xa lìa vĩnh viễn si mê tối tăm.

 

Trần tướng tiêu tan là khi đưa chúng xoay về trong bản tánh thì sự phân biệt của các trần tướng tiêu mất. Do đó các trần tướng tự giải thoát.

Trần tướng tiêu tan vào tánh sáng, trong ngoài đều là một tánh sáng nên pháp giới và thân tâm đều như một viên ngọc lưu ly, sáng suốt không ngại. Chỉ đưa âm thanh trần tướng tiêu tan vào tánh sáng, vào Pháp thân thì lúc nào cũng tu, nơi nào cũng tu, đó là nhập pháp giới như viên ngọc lưu ly. Bấy giờ ai thực sự muốn chạm đến há chẳng tiêu mất tối tăm si ám sao?

 

Mười hai là, tiêu dung hình tướng trở lại tánh nghe, là đạo tràng bất động, thấm nhập thế gian mà không hoại thế giới, hay khắp mười phương cúng dường chư Phật Như Lai như số vi trần, bên mỗi đức Phật làm Pháp vương tử, hay khiến chúng sanh trong pháp giới không có con muốn cầu con trai sanh được con trai trí huệ phước đức.

 

Tiêu dung hình tướng ngã-pháp trở lại tánh nghe, đây là đạo tràng bất động, là pháp giới tánh thấm nhập khắp mà chẳng làm hư hoại thế giới. Khi đạt đến Địa thứ Tám thì tự tại nơi pháp giới, cúng dường thân cận chư Phật. Ở địa thứ Tám Bất động địa đã được tám phần Pháp thân, tám phần Đại viên cảnh trí, cho nên cũng đạt được tám phần Thành sở tác trí mà có thể đáp ứng cho sự nguyện cầu của chúng sanh trong pháp giới.

Thế giới này là sự chia lìa vô phương cứu chữa. Tất cả chỉ được hợp nhất trong tánh nghe, cho nên tánh nghe là sự cứu độ đệ nhất của bậc cứu độ đệ nhất là Đức Quán Thế Âm.

 

Mười ba là, sáu căn viên thông, sáng chiếu tất cả không hai, trùm khắp mười phương cõi, thành Đại Viên Kính Không Như Lai tạng, thừa thuận pháp môn bí mật của mười phương Như Lai, lãnh nhận không thiếu sót, hay khiến những chúng sanh không có con trong pháp giới, muốn cầu con gái sanh được con gái, đoan chánh phước đức, dịu hiền được mọi người yêu kính.

 

Sáu căn viên thông nơi nền tảng chân tánh, tánh sáng ấy chiếu suốt sáu căn làm chúng viên thông lẫn nhau, đây là Trí Đại Viên Kính. Trí tấm gương tròn lớn viên mãn ấy sáng chiếu thấu thoát qua tất cả các bóng trong gương, biến tất cả thành không hai. Nhưng các bóng không thể in chết vào gương, không thể làm gương nhiễm ô, đây là Không Như Lai tạng.

Nói cách khác, Trí Đại Viên Kính là Pháp thân, là tấm gương, các bóng trong gương là Hóa thân như huyễn. Đâu cũng là gương, đâu cũng là Pháp thân, nên ở đâu cũng có Hóa thân đáp ứng cho nguyện ước của chúng sanh. Chúng sanh cũng là bóng trong gương nên chúng sanh cũng là Hóa thân của tấm gương Pháp thân. Thấy được như vậy, nhiếp được như vậy, đó là “cùng tất cả chúng sanh mười phương ba đời đồng một Bi ngưỡng”.

Trí Đại Viên Kính Không Như Lai tạng là tất cả Phật pháp, nên “thừa thuận pháp môn bí mật của mười phương Như Lai, lãnh nhận không thiếu sót”, và đáp ứng cho mọi ước nguyện của chúng sanh bằng Trí Thành Sở Tác.

Người tu là phải sống cái Đại Viên Kính này trong từng niệm niệm, tức là sống tâm Quán Thế Âm.

 

Mười bốn là, trong tam thiên đại thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng, các vị Pháp vương tử hiện ở khắp thế gian có đến sáu mươi hai hằng sa số, tu Phật pháp, nêu gương mẫu tùy thuận giáo hóa chúng sanh, trí huệ phương tiện mỗi mỗi chẳng đồng.

Do con được bổn căn viên thông phát ra diệu tánh của căn tai, sau đó thân tâm vi diệu trùm chứa cùng khắp pháp giới nên có thể khiến cho chúng sanh trì niệm danh hiệu của con, so với những người trì niệm danh hiệu của sáu mươi hai hằng sa số Pháp vương tử ấy, phước đức hai bên bằng nhau không khác.

Bạch Thế Tôn, một danh hiệu của con cùng với rất nhiều danh hiệu kia không khác, là do con tu tập được chân viên thông.

Đó gọi là mười bốn lực thí vô úy, phước sẳn đủ cho khắp chúng sanh.

 

Trì niệm một danh hiệu Quán Thế Âm phước đức cũng bằng trì niệm danh hiệu của sáu mươi hai hằng sa số các Pháp vương tử, bởi vì ngài Quán Thế Âm đã đạt được bổn căn cũng tức là bổn tánh viên thông. Trong bổn căn hay bổn tánh, thân tâm là một, tâm vô biên thân cũng vô biên, trùm chứa cùng khắp pháp giới.

Chân viên thông cũng có nghĩa như vậy, đưa tất cả căn trần thức trở về bản tánh để tất cả chỉ là tánh trùm chứa khắp pháp giới. Khi ấy tánh và tướng không hai, thể và dụng không hai. Do đó một biểu hiện của Bồ tát Quán Thế Âm có nghìn mắt nghìn tay là như vậy.        

Ba mươi hai Ứng hóa thân là sự hóa hiện của sức Từ, “đồng một Từ lực với chư Phật”, sức Từ này là một với tánh nghe thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới. Sức từ này với Bồ tát và hàng Hữu học thì “khiến cho giải thoát”, với chúng sanh thì “khiến cho thành tựu”. Còn mười bốn công đức vô úy là “cùng với tất cả chúng sanh trong sáu nẻo đồng một Bi ngưỡng”, khiến cho chúng sanh thoát khỏi sợ hãi, khổ nạn. Bi nãy cũng là một với tánh nghe thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới.

Từ Bi này lưu xuất từ nguồn tánh, từ căn tai viên thông, do xoay căn trần thức về bản tánh mà thành Diệu lực vô tác, sáng chiếu không hai. Trí huệ và Từ Bi đều do xoay về bản tánh hay Phật tánh sẳn có của mỗi người.

Từ bi là xoay thế giới và chúng sanh trở lại nơi mình. Mình ở đây không phải là một trung tâm cái ta nào đó, mình là bản tánh mà khắp cả đều là trung tâm. Mình ở đây là “Trí Đại Viên Cảnh sáng chiếu không hai, trùm khắp mười phương cõi, thân tâm vi diệu trùm chứa cùng khắp pháp giới”. Khi xoay thế giới và chúng sanh trở lại nơi mình, và không có cái gì ở ngoài mình, cái gì cũng là mình, đây là đại từ đại bi và cũng chính là Phật tánh, Phật quả.

Ở trong tâm từ bi, thì khi nghe tiếng chim kêu, tiếng gió trong cây, tiếng người bên hàng xóm, tiếng xe chạy ngang….đều thấy chúng là tâm từ bi, là tánh nghe từ bi trùm khắp. Khi xoay các trần tướng về tánh giác và cũng là tâm từ bi thì các trần tướng trở thành tâm từ bi. Đây là chỗ bắt đầu tương ưng với tánh nghe bất khả phân với từ bi. Đây là “thuần âm không trần, căn cảnh viên dung”. Đây là “ huân tu tánh nghe thuần sáng, sáng khắp pháp giới”. Đây là “quán cái nghe xoay trở lại, âm thanh hoàn toàn tiêu vào tánh, dứt hết âm thanh, viên mãn tánh nghe, khắp sanh sức từ”.

Tất cả đều là biểu hiện của tâm từ bi. Tu như thế mới thấy tánh nghe từ bi làm cho mình giàu có biết bao nhiêu, vì tất cả pháp giới chúng sanh đều là mình.

-----oo0oo-----

Trích: "Kinh Lăng Nghiêm - Hành Giải"

Dịch và giảng giải: Đương Đạo

NXB Thiện Tri Thức-2016

Ảnh: Nguồn internet

Bài viết liên quan