THAM THIỀN TRONG ĐẠI TOÀN THIỆN - GIÁO LÝ ĐẠI TOÀN THIỆN - CHÖGYAL NAMKHAI NORBU

THAM THIỀN TRONG ĐẠI TOÀN THIỆN

GIÁO LÝ ĐẠI TOÀN THIỆN - CHÖGYAL NAMKHAI NORBU

-----o0o-----

Có nhiều kinh nghiệm khác nhau tạo thành nền tảng cho việc khai triển tham thiền. Chúng được coi là những chủ đề rất quan trọng và điều quan trọng là phải hiểu tại sao.
THAM THIỀN TRONG ĐẠI TOÀN THIỆN - GIÁO LÝ ĐẠI TOÀN THIỆN - CHÖGYAL NAMKHAI NORBU

Có nhiều kinh nghiệm khác nhau tạo thành nền tảng cho việc khai triển tham thiền. Chúng được coi là những chủ đề rất quan trọng và điều quan trọng là phải hiểu tại sao.

KINH ĐIỂN: THIỀN ĐỊNH VÀ TÁNH KHÔNG

Nếu chúng ta đang tuân theo các phương pháp thuộc cấp độ Kinh điển của giáo lý, thì phương pháp thực hành được sử dụng phổ biến nhất để bắt đầu quá trình đưa hành giả vào trạng thái bản tánh của tâm được gọi là Thiền Định, một phương pháp thực hành mà qua đó chúng ta tìm cách phát triển trạng thái tĩnh lặng trong thiền. Thiền Định được thảo luận và thực hành rất nhiều trong nhiều truyền thống khác nhau và một số truyền thống coi đó là điểm chính của thiền; tuy nhiên, người ta không được quên rằng sự hiểu biết về Thiền Định này về cơ bản là quan điểm của Kinh điển, một quan điểm không được các cấp độ khác của giáo lý chia sẻ.

Việc thực hành Kinh điển nói chung luôn liên quan nhiều hơn đến cấp độ vật chất và nguyên lý cơ bản đằng sau các phương pháp của giáo lý theo Kinh là kiểm soát ba hiện hữu của thân, ngữ và tâm của mình theo cách mà chúng ta tránh thực hiện bất kỳ hạnh xấu nào và chỉ thực hiện những hạnh tốt. Trong những phương pháp theo kinh, chúng ta kiểm soát hành vi của mình bằng cách duy trì nhiều giới nguyện khác nhau mà mình đã thọ nhận và bằng cách tuân theo các giới luật liên quan đến chúng mà chúng ta đã thề nguyện sẽ tuân theo.

Ngoài việc tuân theo các giới luật và giới nguyện, khi những người thực hành theo hệ thống Kinh điển để đạt được chứng ngộ và phát triển hiểu biết sâu sắc hơn, họ thực hành Thiền Định. Tại sao họ bắt đầu với Thiền Định? Thực tế là, chúng ta sống trong một tình trạng tương đối, ở giữa mê lầm lớn và hệ quả của tất cả những điều này, chúng ta phát sinh nhiều vấn đề tinh thần. Vì vậy, điều đầu tiên chúng ta cần làm là khám phá ra và bước vào trạng thái tâm tĩnh lặng. Đó là lý do cho sự tồn tại của phương pháp gọi là Thiền Định.

Khi chúng ta thực hành Thiền Định, chúng ta có thể thấy mình trong trạng thái tĩnh lặng. Khi đó, do đã làm dịu tâm trí của mình, chúng ta có thể nhận ra kinh nghiệm về tánh Không. Nhưng khi chúng ta tu tập Thiền Định theo lối Kinh điển, chúng ta thường chú trọng nhiều hơn đến việc khám phá trạng thái tĩnh lặng và có tương đối ít giảng giải hoặc lời trọng yếu được đưa ra đối với trải nghiệm về tánh Không. Tại sao lại như vậy? Nó chỉ đơn giản là một đặc điểm của một số lối giảng dạy Kinh điển. Nhưng nếu bạn đang tu tập một giáo lý như Đại Toàn Thiện, thì bạn nên hiểu mục đích của Thiền Định là gì. Mục tiêu cuối cùng của Thiền Định là cho phép chúng ta đi vào kinh nghiệm tánh Không.

CHÚ TÂM TRÊN MỘT ĐỐI TƯỢNG

Để đạt đến trải nghiệm này, chúng ta bắt đầu thực hành Thiền Định bằng cách chú tâm nhìn vào một vật thể như tượng Phật, hoặc thangka, chẳng hạn như một bức tranh vẽ Ngài Văn Thù, hoặc một mảnh gỗ hoặc đá nhỏ. Một cách chú tâm đặc trưng của Đại Toàn Thiện là sử dụng chữ A làm đối tượng chú tâm. Trong mọi trường hợp, chúng ta đặt một đối tượng trước mặt chúng ta, và hướng ánh nhìn và sự chú ý của chúng ta vào nó một cách nhất tâm.

Tại sao chúng ta thực hành Thiền Định bằng cách sử dụng một đối tượng theo cách này? Bởi vì chúng ta sống trong một trạng thái nhị nguyên và rất quen với các đối tượng của nhận thức nhị nguyên. Nếu chúng ta không có một cái gì đó cụ thể trước mặt chúng ta, chúng ta sẽ khó thực hành hơn. Đây là lý do tại sao chúng ta sử dụng một đối tượng. Bằng cách tập trung sự chú ý của mình vào một đối tượng một cách nhất tâm, chúng ta có thể kiểm soát sự huyên thuyên liên tục theo thói quen của tâm mình và cuối cùng bước vào trạng thái tĩnh lặng. Chúng ta thực hành Thiền Định theo cách đó và chúng ta dần dần tiến đến trạng thái tĩnh lặng. Khi chúng ta có thể duy trì trạng thái tĩnh lặng trong một thời gian dài hơn, ngay cả khi các ý nghĩ xuất hiện, chúng ta vẫn đang nhận ra việc thực hành Thiền Định.

CHÚ TÂM KHÔNG ĐỐI TƯỢNG

Sau đó chúng ta huân tập thực hành Thiền Định mà không sử dụng một đối tượng làm cơ sở cho việc hướng ánh nhìn và sự chú ý của chúng ta. Chúng ta lấy đi đối tượng và lúc này chúng ta nhìn vào không gian vào chiều kích của tánh Không. Giữ cho tất cả các giác quan của chúng ta yên lặng, chúng ta cố gắng thư giãn vào trạng thái tĩnh lặng giống như chúng ta đã đạt được thông qua việc chú tâm nhìn bằng cách sử dụng một đối tượng. Giai đoạn thứ hai của thực hành Thiền Định được gọi là “chú tâm không đối tượng”. Trong mọi trường hợp, chúng ta coi rằng chúng ta đã thành công trong việc thực hành Thiền Định khi chúng ta có thể duy trì trong một khoảng thời gian dài hơn mà không có suy nghĩ, trong trạng thái nhất tâm mà không bị suy nghĩ quấy rầy theo bất kỳ cách nào. Trong trạng thái chú ý nhất tâm đó, chúng ta khám phá ra rằng đặc tính thực sự vốn có của trạng thái tĩnh lặng là tánh Không. Chúng ta thực sự đang trải nghiệm tánh Không của mọi hiện tượng cho chính mình. Đây là một loại kinh nghiệm.

Nói chung là khá dễ dàng để đạt đến kinh nghiệm này về tánh Không của mọi hiện tượng. Điều khó hiểu hơn là khám phá ra rằng, khi chúng ta thấy mình ở trong trạng thái tĩnh lặng, bản tánh thực của chúng ta không chỉ bao gồm trạng thái tĩnh lặng, mà còn cả những chuyển động vô hạn của suy nghĩ liên quan đến cảm xúc của chúng ta và năng lượng của chúng ta phát sinh liên tục như chức năng của trạng thái rỗng không.

HOÀ NHẬP TANTRA VỚI CHUYỂN ĐỘNG

Trong những giáo lý Mật thừa và Đại Toàn Thiện, có những giáo huấn và phương pháp đặc biệt hoạt động cụ thể với sự chuyển động này mà không chỉ dựa vào việc duy trì hay an nghỉ trong trạng thái tĩnh lặng.

Khi trạng thái của một người được giảng giải trong các giáo lý nói chung, được nói đến là nepagyuwa. Nepa đề cập đến trạng thái tĩnh lặng; gyuwa đề cập đến khía cạnh trạng thái chuyển động của chúng ta. Trong trạng thái tĩnh lặng, chúng ta nhận ra chuyển động này của suy nghĩ, cảm xúc và năng lượng của mình và sau đó chúng ta phải hoà nhập với nó. Có nhiều phương pháp khác nhau mà chúng ta có thể thọ nhận để hoà nhập với chuyển động này, nhưng những phương pháp như vậy không được tìm thấy trong các giáo lý theo Kinh. Tuy nhiên, chúng là phương pháp chính được sử dụng trong Mật thừa.

Đó là lý do tại sao các phương pháp Mật thừa liên quan đến việc tụng, hát, sử dụng các nhạc cụ và nhiều loại chuyển động khác nhau. Những người không quen làm những việc này không coi đây là thiền. Họ nói: “Ồ, tôi thích thực hành thiền, nhưng tôi không thích thực hiện các lễ cúng (pujas)”. Hoặc, “Tôi không thích thực hiện các nghi lễ Mật thừa”. Nhiều người nói đại loại như vậy. Nhưng những tuyên bố như vậy thường có nghĩa là những người đưa ra chúng không hiểu cách mà chuyển động là một phần của bản tánh của chúng ta; họ không hiểu giá trị của chuyển động. Họ tin rằng trạng thái của mình là tánh Không và ở trong tánh Không là tất cả. Nhưng đó không phải là toàn bộ trạng thái thực sự của chúng ta. Những người đưa ra những tuyên bố như vậy chỉ quen làm theo những giáo lý theo Kinh và không hề biết gì về sự vận hành của những giáo lý Mật thừa.

SỰ CHUYỂN HOÁ

Trong giáo lý Mật thừa, đầu tiên chúng ta nhận quán đảnh và giáo huấn. Quán đảnh thực sự có nghĩa là chúng ta nhận được thông tin về cách đi vào trạng thái chuyển hoá; chúng ta chuyển hoá trạng thái nhị nguyên không trong sạch của mình thành một chiều kích thanh tịnh. Chính xác thì chuyển hoá có ý nghĩa gì với chúng ta? Những gì chúng ta đang đề cập đến là làm việc với sự chuyển động của suy nghĩ, cảm xúc và năng lượng mà tôi vừa mô tả là một khía cạnh của trạng thái cá nhân, thay vì chỉ duy trì trong trạng thái rỗng không, là khía cạnh khác của trạng thái đó. Bằng cách làm việc với sự chuyển động này, chúng ta chuyển hoá một cách tích cực.

Khi xem xét trạng thái thực sự của chúng ta như một toàn thể, trước hết chúng ta phải hiểu tánh Không tinh tuý của nó; nhưng trạng thái thực sự của chúng ta không chỉ là trạng thái rỗng không. Nếu trạng thái thực sự của chúng ta chỉ là sự rỗng không và cũng không có tiềm năng biểu lộ vô hạn như phẩm tính vốn có của nó, thì sự rỗng không đó tự nó sẽ không có giá trị gì. Vì trạng thái thực sự của chúng ta bao gồm tiềm năng biểu lộ vô hạn phát sinh như một phẩm tính của chính trạng thái rỗng không, ngay cả khi chúng ta đã thực hành Thiền Định trong một thời gian dài, chúng ta sẽ không phát triển được tiềm năng hoà nhập vào khía cạnh chuyển động của bản tánh chúng ta. Khi những người thực hành Thiền Định hoàn thành việc thực hành của họ và rời khỏi thiền đường, họ thường hoàn toàn bị xao nhãng bởi mọi thứ mà họ gặp phải, bởi vì giờ đây họ không còn ở trong trạng thái tĩnh lặng hỗ trợ cho việc hành thiền Thiền Định của họ và nhiều chuyển động phát sinh phải được đối trị và đưa vào thực hành. Những người thực hành đã quen với thực hành Thiền Định có thể không có khả năng hoà nhập với sự chuyển động vì họ thiếu kinh nghiệm cần thiết và chỉ có kinh nghiệm ở trạng thái tĩnh lặng.

Nếu chúng ta đang ở trong trạng thái tĩnh lặng, chúng ta nên làm gì để phát triển kinh nghiệm hoà nhập? Nếu một số chuyển động phát sinh, điều đầu tiên chúng ta phải làm là chú tâm đến nó. Nếu chúng ta đang đi lại, di chuyển loanh quanh và làm điều gì đó, thì ngay lúc đó chúng ta nên tiếp tục duy trì trạng thái nhất tâm, không xao nhãng. Nếu chúng ta chỉ quen thực hành Thiền Định, chúng ta sẽ không thể hoà nhập theo cách này.

Trong giáo lý Mật thừa, chúng ta phải có hiểu biết về tánh Không, bởi vì đó thực sự là bản tánh thực của chúng ta; nhưng sau đó chúng ta cũng phải làm việc với sự chuyển động, bởi vì đó là khía cạnh khác của bản tánh của chính chúng ta. Do đó, chúng ta quán tưởng rằng chúng ta đã chuyển hoá thành một vị bổn tôn cụ thể. Những bổn tôn Mật thừa khác nhau là những dạng nhân cách hóa của những sự vận hành khác nhau của năng lượng của chính chúng ta. Chúng ta cũng phải hiểu rằng chiều kích của chúng ta là một chiều kích thanh tịnh và hoàn cảnh của chúng ta trên thực tế là một mạn đà la. Các chi tiết về vị bổn tôn và mạn đà la sẽ được trao truyền cho người thực hành bởi vị đạo sư đã quán đảnh Tantra để thực hành bổn tôn mà hành giả đang quán tưởng.

Thông qua sự trao truyền từ đạo sư và bằng cách thực hành của mình, người thực hành có thể đi vào chiều kích thanh tịnh của mạn đà la - trên thực tế là trạng thái của chính mình từ ban sơ. Phương tiện mà sự chuyển hoá này được thực hiện là thông qua khía cạnh chuyển động của năng lượng của chính mình. Thực tế là cho dù một người ở trong trạng thái chuyển động này, hay trong trạng thái tĩnh lặng nơi mà không có chuyển động, cuối cùng không có sự khác biệt giữa hai trạng thái này. Cả hai đều là những khía cạnh của trạng thái của chính chúng ta, một trạng thái về bản tánh là bất nhị.

ĐẠI ẤN

Khi bạn hiểu điều này và thực sự trải nghiệm trạng thái tĩnh lặng và chuyển động không khác nhau, hay như các khía cạnh của cùng một nguyên lý không thể phân chia, đó là Đại Ấn thực sự. Nó không có nghĩa là chỉ ở trong trạng thái rỗng không.

Khi chúng ta nói về trạng thái Đại Ấn, điều này có nghĩa là chúng ta thấy mình ở trong trạng thái chuyển hóa, trong trạng thái sáng tỏ nơi mà chúng ta không còn phán xét, suy nghĩ, tạo dựng hay ngăn cản bất cứ điều gì. Ở trạng thái này, chúng ta hoàn toàn có khả năng để duy trì sự hoà nhập vào bất kỳ chuyển động nào phát sinh, cho dù chúng ta đang đi bộ, làm việc hoặc thực hiện bất kỳ loại hoạt động nào. Mọi hoạt động của chúng ta đều trở thành Đại Ấn.

Bạn đã đọc một trong những bài ca của Milarepa, trong đó ngài hát: “Khi tôi đi lấy nước, thì tôi đang làm gì? Lấy nước là Yantra với tôi! Khi tôi thức dậy từ giấc ngủ, thì tôi đang làm gì? Thức dậy từ giấc ngủ là Yantra”.

Khi chúng ta thực hành ở cấp độ này, mọi hoạt động của chúng ta đều trở thành Yantra và không cần đến Yantra nào khác. Tại sao mọi hoạt động của chúng ta đều trở thành Yantra? Đối với một người thực hành ở cấp độ này, mọi hoạt động được kiểm soát bởi hiểu biết về cách duy trì trạng thái hoà nhập. Những gì chúng ta học được trong Mật thừa là nhận biết giá trị của chuyển động và cách kết hợp chuyển động vào thực hành tham thiền.

RIGPA, TRẠNG THÁI HIỆN DIỆN TRỰC TIẾP

Trong tiếng Tây Tạng từ chỉ trạng thái tĩnh lặng là nepa và từ chỉ trạng thái chuyển động là gyuwa. Nhưng có một thuật ngữ thứ ba cũng được sử dụng cùng với hai thuật ngữ này, đó là rig, thường có nghĩa là “hiểu biết” hoặc “tánh giác”. Nhưng những gì đang được đề cập bởi rig không chỉ đơn thuần là một cái biết trí huệ, mà là một trạng thái kinh nghiệm tánh giác. Do đó, tôi thường dịch rig là “hiện diện trực tiếp”. Khi một trạng thái tánh giác được biểu lộ theo cách đặc trưng của Đại Toàn Thiện, điều được giới thiệu là hiện diện trực tiếp này. Và khi chúng ta nói về tham thiền, những gì chúng ta đang nói đến là ở trong trạng thái hiện diện trực tiếp này, thường được gọi là rigpa.

Ngày nay, thuật ngữ rigpa có thể được sử dụng để chỉ nhiều khía cạnh khác nhau và đôi khi được sử dụng theo nghĩa chung hơn là “trí huệ”. Nhưng rigpa được sử dụng trong giáo lý Đại Toàn Thiện không chỉ có nghĩa là hiểu biết hay trí huệ thông thường. Những gì đang được đề cập đến là một kinh nghiệm. Khi tự mình có kinh nghiệm về hiện diện trực tiếp này, chúng ta có thể nhận ra nó. Bấy giờ, chúng ta thực sự có thể hiểu được ý nghĩa của rigpa.

Chúng ta có thể thấy rằng để học hay ứng dụng thực hành Đại Toàn Thiện, hay ở trong trạng thái thực sự của Đại Toàn Thiện, nguyên lý không chỉ là chúng ta ngồi yên lặng ở đâu đó để thực hành Thiền Định. Thiền Định là hữu ích và quan trọng, nhưng nó không phải là thứ quan trọng cuối cùng. Thiền Định, hay trạng thái rỗng không, cuối cùng chỉ là một loại kinh nghiệm. Và trong giáo lý Đại Toàn Thiện, có những phương pháp quan trọng hơn nhiều so với phương pháp Thiền Định thông thường. Mọi người thường không hiểu những điều này. Khi họ nói về Thiền Định, họ nói như thể họ coi đó là một thực hành tối cao. Nhưng điều này đơn giản là không đúng.

GIỚI THIỆU TRỰC TIẾP

Trong Đại Toàn Thiện, giới thiệu được nói đến rất nhiều. Khi chúng ta nói về giới thiệu, thứ được gọi là giới thiệu trực tiếp được coi là quan trọng nhất. Do đó, một số người dường như luôn chờ đợi sự giới thiệu trực tiếp này đến từ đâu đó. Đôi khi có người đến gặp tôi và nói: “Xin Ngài có thể giới thiệu trực tiếp cho con được không?” Như thể đó là thứ tôi giữ trong túi và tôi có thể đưa cho họ. Nhưng giới thiệu trực tiếp không thể được đưa ra theo cách đó. Điều rất quan trọng là phải hiểu giới thiệu trực tiếp là gì và làm thế nào chúng ta có thể có nó. Khi chúng ta biết giá trị của kinh nghiệm và hiểu cách sử dụng kinh nghiệm đó, thì chúng ta đã có một trong những chuẩn mực để nhận được sự giới thiệu trực tiếp. Sau đó, chúng ta cần biết cách làm việc với đạo sư, tích cực tham gia và có lòng tận tụy, để chúng ta có thể làm việc với đạo sư cho đến khi chúng ta đạt đến sự chứng ngộ hoàn toàn. Tiếp tục theo cách này, chúng ta có thể nhận được sự giới thiệu trực tiếp.

Đôi khi, khi mọi người học một phương pháp cụ thể, họ tự nghĩ: “Ồ, bây giờ tôi đã hiểu phương pháp này; bây giờ tôi có thể thực hành nó”. Họ viết thực hành xuống rồi bỏ đi, không quan tâm lắm đến đạo sư và sự trao truyền. Nhưng đây là cách làm sai lầm. Bạn cần đạo sư cho đến khi bạn đạt được sự chứng ngộ hoàn toàn. Bạn cũng cần phải làm việc với đạo sư. Những giáo huấn tâm linh như những giáo huấn được tìm thấy trong Đại Toàn Thiện không phải là những kỹ thuật đơn thuần. Xu hướng coi giáo huấn không hơn gì kỹ thuật là một vấn đề phổ biến ở người phương Tây.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO SƯ

Đạo sư là tối quan trọng, bởi vì các phương pháp được thực hành phải liên quan đến kinh nghiệm của các đệ tử. Một đạo sư đứng đắn của Đại Toàn Thiện phải hiểu kinh nghiệm của bất kỳ đệ tử cụ thể nào và sau đó có thể đề xuất các thực hành theo cách mà cá nhân đó đang khai triển, không chỉ đưa ra các thực hành theo một phương pháp nhất định bất kể tính cách, năng lực và sự tiến bộ của đệ tử. Chúng ta không cần một đạo sư, nếu như ta sẽ tiếp tục ứng dụng mọi thứ một cách máy móc. Nếu điều đó là đủ, thì đọc sách là đủ. Chúng ta sẽ không cần một đạo sư nếu chúng ta chỉ ứng dụng một hệ thống đã định theo cùng một cách trong mọi hoàn cảnh và trong mọi điều kiện. Mặt khác, nếu chúng ta muốn ứng dụng thực hành theo nhu cầu và năng lực của riêng mình, thì sự tham gia của một đạo sư là điều cần thiết. Nếu chúng ta cần một đạo sư, điều đó có nghĩa là đạo sư và đệ tử làm việc cùng nhau. Tôi đã dạy theo cách này trong nhiều năm. Nếu chúng ta hiểu giá trị của giáo lý và sự trao truyền, chúng ta hiểu tầm quan trọng của đạo sư. Nếu chúng ta không hiểu những điều này, thì chúng ta sẽ nghĩ rằng trước tiên chỉ cần làm điều này là đủ và sau đó làm điều đó, như thể chúng ta đang làm việc với một máy tính. Nhưng giáo lý không được ứng dụng một cách máy móc như vậy. Giáo lý phải được hiểu là một năng lượng sống, một cái gì đó cần phải gìn giữ trong và giữa các cá nhân thực hành nó. Điều này có nghĩa là chúng ta phải làm việc với đạo sư và sự trao truyền mọi lúc và không bị gián đoạn.

Đôi khi mọi người có thể cảm thấy rằng họ có vấn đề vì đạo sư của họ không có mặt trực tiếp với họ. Chúng ta không thể dùng toàn bộ thời gian với đạo sư của mình. Trong thực tế, điều này không nên trở thành một vấn đề. Vấn đề không phải là bạn luôn cần đạo sư bên cạnh. Đúng là đôi khi bạn có thể cần hỏi đạo sư điều gì đó, nhưng ngày nay có nhiều cách có thể để liên hệ với đạo sư. Nếu đạo sư vẫn còn sống, bạn luôn có thể gặp vào một lúc nào đó. Nếu bạn thực sự thực hành nghiêm túc, bạn có thể, bất kể tình huống nào, duy trì mối liên hệ với đạo sư; bởi vì khi bạn bước vào thực hành và trở thành một đệ tử giỏi, vị đạo sư được tìm thấy bên trong bạn. Đạo sư không chỉ là một hiện tượng bên ngoài. Mà vị ấy cũng có thể biểu lộ thông qua sự sáng tỏ của chính bạn. Chúng ta phải hiểu rõ về điều này. Thực tại của hoàn cảnh hiện thực của chúng ta là mọi thứ không chỉ là ở bên ngoài đối với chúng ta.

-----o0o-----

Trích: “Giáo Lý Đại Toàn Thiện ".

Tác giả: Chögyal Namkhai Norbu.

Việt dịch: Thông Quang

NXB Snow Lion, 2006.

Ảnh: nguồn Internet.

Bài viết liên quan